Tác giả: Quinton Temby
Biên dịch: Đinh Nho Minh
Posted on 25/11/2018 by The Observer
Why Terrorists Quit: The Disengagement
of Indonesian Jihadists. Tác giả: Julie
Chernov Hwang. Ithaca, New York: Cornell University Press, 2018. Bìa
cứng: 206 trang.
Theo một đề tài nghiên cứu nổi tiếng của David C.
Rapoport, khủng bố có nhiều thế hệ. Tuy nhiên thế hệ “Tôn giáo cực
đoan” sẽ khó phân tích hơn. Các phần tử Hồi giáo Thánh chiến của các
thế hệ trước, bao gồm những kẻ không tặc trong vụ 11 tháng 9, dần
được thay thế bởi thế hệ iGeneration. Với những phần tử trẻ này, những
vụ khủng bố kiểu như 11 tháng 9 đã lỗi thời giống như buồng điện
thoại và mạng dial-up. Thế hệ “Tôn giáo cực đoan” này dường như không
có hồi kết.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng có những phần tử
khủng bố cực đoan đã từ bỏ phong trào này. Đây là đề tài của cuốn sách Why
Terrorists Quit: The Disengagement of Indonesian Jihadists (Vì sao khủng bố
Bỏ cuộc: Từ bỏ Phong trào Hồi giáo Cực đoan ở Indonesia) của
Julie Chernov Hwang. Cuốn sách của Hwang dựa nhiều vào tội phạm học
hơn là khủng bố học với việc nghiên cứu tại sao tội phạm tự giác
ngừng phạm tội. Tuy nhiên, nghiên cứu vì sao các phần tử khủng bố bỏ
phong trào lại rất hiếm mặc dù những năm gần đây đã có nhiều tài
trợ cho các chương trình thử nghiệm nhằm chống chủ nghĩa cực đoan
bạo lực.
Trong nghiên cứu này, Hwang cẩn thận phân biệt
khái niệm rời bỏ phong trào khủng bố (disengagement) với khái niệm
phi cực đoạn hóa (deradicalization). Hwang tập trung vào phân tích rời
bỏ phong trào khủng bố. Bà định nghĩa khái niệm này là sự ngừng tham
gia các hoạt động bạo lực. Hwang giải thích rằng “Khái niệm này chỉ
một sự thay đổi trong hành vi, khác với phi cực cực đoan hóa về tư
tưởng. Khái niệm phi cực đoan hóa chỉ sự phủ nhận chủ nghĩa cực
đoan bạo lực” (trang 4).
Nghiên cứu của Hwang dựa trên sáu năm thực
nghiệm với hàng trăm cuộc phỏng vấn với 55 phần tử cực đoan người
Indonesia. Đóng góp lớn nhất của cuốn sách này là tổng kết về cuộc
đời của năm phần tử cực đoạn – cả công khai danh tính lẫn giấu tên –
mỗi người được kể trong một chương. Các phần tử này được dẫn lời thường
xuyên nhằm kể lại quá trình gia nhập rồi rời phong trào cực đoan của
họ. Anas, thuộc tổ chức cực đoan Jemaah Islamiyah (JI) tham gia vào xung
đột ở Ambon, kể về sự lôi cuốn của phong trào thánh chiến vũ trang: “Khi
tôi còn ở trong tổ chức, tôi như bị nghiện với nó. Phong trào thánh
chiến có thể gây nghiện. Có người nói bạo lực giống như thuốc phiện”
(trang 82).
Từ các cuộc phỏng vấn này, Hwang tìm ra bốn
yếu tố chung khiến các phần tử khủng bố rời bỏ tổ chức cực đoan.
Những đặc điểm này đều đã được nhắc đến trong các nghiên cứu trước
đây. Tuy nhiên quan trọng hơn, Hwang chỉ ra rằng những người được phỏng
vấn cần nhiều hơn một yếu tố diễn ra cùng lúc trong một thời gian dài
trước khi rời bỏ tổ chức. Đó là vì một khi đã “nghiện” phong trào
cực đoan thì rời bỏ thói quen nghiện sẽ khó.
Một trong những yếu tố này là sự thất vọng
với chiến thuật khủng bố, tuy nhiên chỉ mình yếu tố này là không
đủ. Hwang cho rằng sự thất vọng phải đi kèm với việc nhận ra cái giá
phải trả là không đáng với cái lợi thu được mới đủ giúp họ quyết
định rời bỏ phong trào. Bà cũng thêm rằng rời bỏ tổ chức ở đây là
“từ bỏ mạng lưới [tổ chức cực đoan]. Không có dấu hiệu của sự tái
hòa nhập cộng đồng ở các phần tử này” (trang 173). Hwang kết luận
rằng để rời bỏ phong trào cực đoan hoàn toàn và tái hòa nhập xã
hội, sự hỗ trợ của bạn bè và gia đình là một nhân tố then chốt đối với
các phần tử này.
Mặc dù có những điểm mạnh rõ ràng, cuốn
sách này có một số vấn đề về phương pháp. Vấn đề rõ ràng nhất
liên quan đếu câu hỏi “vì sao”, và cũng là câu hỏi khó trả lời nhất:
phỏng vấn những tên khủng bố bỏ tổ chức để suy ra tại sao những tên khủng
bố nói chung bỏ cuộc đồng nghĩa với việc lấy mẫu dựa trên biến phụ thuộc.
Tìm được một tập hợp mẫu đại diện cho các phần tử khủng bố khác nhau
có lẽ là không thể. Tuy nhiên nếu có một tập hợp các mẫu như vậy thì
chúng ta có thể thấy rằng những đặc điểm chung của những tên khủng bố
đã bỏ phong trào cũng hiện diện ở những tên chưa bỏ phong trào. Những tên
khủng bố chưa từ bỏ bạo lực cũng có thể tỏ ra thất vọng và đặt
dấu hỏi về cái giá phải trả cho các cuộc tấn công.
Một vấn đề khác liên quan đến “khủng bố”. Cho
dù định nghĩa có khác nhau thế nào, chiến thuật khủng bố thường
xuất hiện trong nhiều xung đột vũ trang. Tuy nhiên các trường hợp của
Hwang đều chỉ đến từ xung đột giữa các tín đồ Đạo Thiên chúa và Đạo
Islam ở Poso, Trung Sulawesi, Indonesia. Xung đột Poso lên đến đỉnh điểm
vào năm 2000 nhưng rồi hạ nhiệt sau quá trình đàm phán hòa bình
Malino năm 2001. Mặc dù có những tổ chức bên ngoài như JI tham gia vào,
xung đột ở Poso chủ yếu diễn ra trong nội bộ. Liệu ta có thể đưa ra
được một kết luận chung về vì sao những kẻ khủng bố từ bỏ phong trào
chỉ dựa trên một nghiên cứu về xung đột cộng đồng ở Indonesia và việc
rời bỏ phong trào cực đoan ở đây? Câu trả lời là không rõ.
Cuối cùng, ngay cả với các thành viên nhóm JI
–nhóm phiến quân chính ở Indonesia – làm sao chúng ta có thể xác định được mức
độ từ bỏ phong trào bạo lực khi khủng bố chưa bao giờ là một chiến thuật
mà nhóm này sử dụng ở cấp độ toàn bộ phong trào. Kế hoạch chính của JI, vì
lí do chiến lược, là tránh bạo lực và tập trung vào tuyển người và
huấn luyện. Vì vậy, nghiên cứu về việc rời bỏ các hành vi bạo lực khi những
hành vi bạo lực như vậy hiếm khi diễn ra khó nói lên điều gì về câu hỏi nghiên
cứu ở đây.
Mặc dù vậy, cuốn sách này vẫn đóng góp vào
cuộc tranh luận chính sách về cách chống chủ nghĩa cực đoan bạo lực.
Các nghiên cứu của Hwang cho thấy nhiều kẻ khủng bố từ bỏ phong trào
nhờ sự trợ giúp hiệu quả của gia đình và bạn bè. Trong khi đó, các
chương trình can thiệp từ trên xuống của Cục Chống Khủng Bố Quốc
Gia Indonesia (BNPT) thường không hiệu quả. Dựa vào phỏng vấn với các
nhà hoạt động xã hội dân sự, Hwang nhận ra rằng “các nỗ lực phi cực
đoan hóa của BNPT thường bị chỉ trích là được lên kế hoạch và thực
hiện kém, đồng thời không phù hợp với nhu cầu của đối tượng” (trang
150).
Kết luận đơn giản này có ý nghĩa lớn với
chương trình chống chủ nghĩa cực đoan bạo lực nói chung. Nếu quá trình
giúp các phần tử khủng bố tái hòa nhập diễn ra hiệu quả nhất ở
gia đình và cộng đồng, có lẽ các chương trình tái hòa nhập nên tập
trung vào chương trình “cộng đồng bền vững”, được thực hiện từ cơ sở.
Bằng cách tập trung vào mối quan hệ lành mạnh với bố mẹ, con cái, gia
đình và bạn bè, những sáng kiến cục bộ như vậy có thể tránh được những
kỳ thị xuất phát từ ngôn từ an ninh hóa vốn càng làm cho các cộng đồng dễ bị cực
đoan hóa càng trở nên xa cách hơn.
*
Quinton Temby là nghiên cứu viên khách mời tại Trường
Châu Á và Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia.
Nguồn bài điểm sách bằng tiếng Anh: Contemporary Southeast Asia 40, No.2 (2018), pp.
327-29.
---------------------
Có
Thể Bạn Quan Tâm:
No comments:
Post a Comment