Joseph
E. Stiglitz - Project Syndicate
Biên
dịch: Nguyễn Tuấn Anh | Hiệu đính: Lê Hồng
Hiệp
Posted on 26/11/2018 by The Observer
Hoa Kỳ từ lâu đã trở thành cứ điểm của chế độ dân chủ.
Nước này đã thúc đẩy dân chủ trên toàn thế giới. Vì sự nghiệp dân chủ, dù chịu
tổn thất nặng nề nhưng Hoa Kỳ đã chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít ở châu Âu
trong Thế chiến II. Bây giờ một cuộc chiến như vậy đang diễn ra tại nước Mỹ.
Uy tín của nền dân chủ Mỹ luôn có những vết nhơ nào
đó. Từ lúc lập quốc Hoa Kỳ đã tồn tại dưới hình thái một nền dân chủ đại diện,
nhưng chỉ một phần nhỏ công dân nước này – chủ yếu nam giới da trắng có tài sản-
là đủ điều kiện để bỏ phiếu. Sau khi bãi bỏ chế độ nô lệ, những người da trắng ở
miền Nam nước Mỹ đã đấu tranh chống quyền bỏ phiếu của người Mỹ gốc Phi gần một
thế kỷ, sử dụng thuế khoán và các bài kiểm tra khả năng
đọc viết để ngăn người nghèo không tiếp cận được với lá phiếu. Quyền bầu cử của
họ đã được định chế hóa gần nửa thế kỷ sau khi phụ nữ giành được quyền bỏ phiếu
vào năm 1920.
Các nền dân chủ đã đúng khi hạn chế quyền thống trị
của đa số, đó là lý do tại sao chúng bảo vệ bằng mọi giá một số quyền cơ bản bất
khả xâm phạm. Nhưng ở Mỹ, mọi thứ đã khác. Thiểu số thống trị đa số, và ít quan
tâm đến quyền chính trị và kinh tế của họ. Đa số người Mỹ muốn kiểm soát
quyền sở hữu súng, tăng mức lương tối thiểu, được đảm bảo tiếp cận bảo hiểm y tế,
và các quy định có hiệu quả hơn trong việc điều tiết các ngân hàng đã gây ra cuộc
khủng hoảng năm 2008. Tuy nhiên, tất cả các mục tiêu này xem chừng rất khó đạt
được.
Một phần nguyên do bắt nguồn từ Hiến pháp Hoa Kỳ.
Trong thế kỷ này, hai trong ba tổng thống được bầu đã nhậm chức dù không nhận
được đa số phiếu phổ thông. Nếu không có cơ chế cử tri đoàn, được qui định
trong hiến pháp do sự đòi hỏi đến cùng của các bang ủng hộ chế độ nô lệ nhưng
ít dân hơn, Al Gore và Hillary Clinton sẽ lần lượt trở thành tổng thống vào năm
2004 và 2016.
Nhưng việc Đảng Cộng hòa sử dụng các thủ đoạn như
ngăn trở quyền bầu cử của cử tri, gian lận phân vùng bầu cử, và những nỗ lực
tương tự nhằm thao túng bầu cử cũng đã góp phần ngăn cản ý chí của đa số. Cách
tiếp cận của đảng này không có gì là khó hiểu: suy cho cùng, sự biến động về
thành phần dân số đã đẩy đảng Cộng hòa vào tình thế bất lợi trong bầu cử. Đa
số dân số Mỹ sẽ sớm không phải người da trắng, và nền kinh tế toàn cầu thế
kỷ 21 sẽ không thể thỏa hiệp với một xã hội gia trưởng do nam giới thống trị.
Và các khu vực đô thị nơi đa số người Mỹ sinh sống, bất kể ở miền Bắc hay miền
Nam, đã chấp nhận giá trị của sự đa dạng.
Những cử tri trong các khu vực có sự tăng trưởng đầy
năng động này cũng xem chính phủ cần phải có vai trò trong việc mang lại phúc lợi
chung cho tất cả. Họ đã từ bỏ những giáo điều lỗi thời của quá khứ, với đôi lúc
ngay tức khắc. Do đó, trong một xã hội dân chủ, cách duy nhất để một nhóm thiểu
số – dù đó là các tập đoàn lớn đang ra sức bóc lột người lao động và người tiêu
dùng, các ngân hàng đang bòn rút đến cùng người đi vay, hay bất kì ai bị vướng
mắc trong quá khứ đang cố gắng thiết lập lại một thế giới đã hết thời – có
thể duy trì sự thống trị kinh tế và chính trị của họ là bằng cách hủy hoại
chính nền dân chủ đó.
Chiến lược đó gồm nhiều chiến thuật. Cùng với việc ủng
hộ một số nhóm nhập cư nhất định, các quan chức đảng Cộng hòa đã tìm cách ngăn
chặn cử tri có thiên hướng ủng hộ đảng Dân chủ đăng ký bỏ phiếu. Nhiều bang do
đảng Cộng hòa kiểm soát đã thiết lập các yêu cầu về căn cước công dân đầy phiền
toái tại các điểm bỏ phiếu. Và một số chính quyền địa phương đã loại các cử tri
như vậy khỏi các danh sách cử tri, giảm số trạm bỏ phiếu, hoặc rút ngắn thời
gian mở cửa các trạm này.
Thật là khó hiểu với cách thức nước Mỹ gây khó dễ
cho việc bỏ phiếu và thực hiện quyền công dân cơ bản. Hoa Kỳ là một trong số ít
những nền dân chủ tổ chức
bầu cử vào ngày làm việc, thay vì chủ nhật, điều rõ ràng cản trở công dân thực
hiện quyền bầu cử. Điều này trái ngược với các nền dân chủ khác, như Úc,
nơi công dân có nghĩa vụ bắt buộc phải đi bầu cử, hoặc với một vài tiểu bang,
như Oregon, nơi đã giúp việc bỏ phiếu dễ dàng hơn nhờ cho phép bỏ phiếu qua đường
bưu điện.
Thêm nữa, hệ thống giam giữ hàng loạt, vốn tiếp tục
nhắm đến người Mỹ gốc Phi, trong lịch sử đã phục vụ cùng lúc ba mục đích. Ngoài
việc cung cấp lao động giá rẻ và kiềm chế tiền lương (đến nỗi ngày nay, như
Michael Poyker của Đại học Columbia chỉ ra, các tù nhân Mỹ sản xuất khoảng 5% sản
lượng công nghiệp của Mỹ), hệ thống này còn được thiết lập để phủ định quyền bỏ
phiếu của những người bị kết án hình sự.
Khi mọi thủ đoạn trên đều không thành, đảng Cộng hòa
tìm cách áp chế quyền lực của chính phủ thắng cử bằng những cách như đưa vào
tòa án liên bang các thẩm phán, những người sẽ giúp bác bỏ những chính sách mà
các nhà bảo trợ của họ phản đối. Những cuốn sách quan trọng gần đây, như Nền
Dân Chủ Bị Trói Buộc (Democracy in Chains ) của nhà sử học
Nancy MacLean và Giải Pháp dành cho 1% Thống Trị (The One Percent
Solution) của nhà khoa học chính trị Gordon Lafer đến từ Đại học
Oregon, đã nghiên cứu nguồn gốc học thuật và các thiết chế có tính tổ chức của
đảng Cộng hòa được dùng nhằm tấn công nền dân chủ.
Những lý tưởng của nước Mỹ về tự do, dân chủ và công
bằng cho tất cả mọi người có thể chưa bao giờ được thực hiện thành công tuyệt đối,
nhưng giờ đây những giá trị này đang bị tấn công công khai. Dân chủ đã trở
thành sự cai trị của thiểu số, do thiểu số, và vì thiểu số; và công lý cho mọi
người chỉ có tác dụng với người da trắng có đủ điều kiện.
Tất nhiên, đây không chỉ là vấn đề của riêng người Mỹ.
Trên toàn thế giới, có nhiều nhà độc tài với ít cam kết dân chủ đang nắm quyền
như Recep Tayyip Erdoğan ở Thổ Nhĩ Kỳ, Viktor Orbán ở Hungary, Jarosław
Kaczyński ở Ba Lan, và giờ đây là Jair Bolsonaro ở Brazil. Nhìn vào quá khứ, có
thể nói rằng điều này rồi cũng sẽ qua đi. Thử nghĩ về tất cả các nhà độc tài xấu
xa trong những năm 1930. Hãy nhớ đến những người như Salazar ở Bồ Đào Nha và
Franco ở Tây Ban Nha, những người sống sót sau Thế chiến II. Tất cả họ giờ đều
cũng không còn.
Dẫu vậy, chúng ta cần suy nghẫm một chút để tự cảnh
tỉnh về những tổn thất mà người dân sống dưới các nhà độc tài này phải gánh chịu.
Và người Mỹ phải đối diện với thực tế là tổng thống của mình, Donald Trump,
đã ủng hộ và tiếp tay cho những kẻ độc tài đang chớm nở của ngày hôm nay.
Đó chỉ là một trong nhiều lý do tại sao năm nay lại
rất quan trọng nếu có một Quốc hội do Đảng Dân chủ kiểm soát để có thể ngăn chặn
khuynh hướng chuyên chế của Trump, và bầu các quan chức cấp tiểu bang và địa
phương, những người sẽ khôi phục quyền bỏ phiếu cho tất cả những ai được hưởng
quyền đó. Nền dân chủ đang bị tấn công, và tất cả chúng ta đều có bổn phận phải
làm tất cả những gì có thể – bất kể chúng ta ở đâu – để giải cứu nó.
*
Joseph E. Stiglitz, chủ nhân giải Nobel Kinh tế năm
2001, là giáo sư tại Đại học Columbia.
Nguồn: Joseph E. Stiglitz, “Can
American Democracy Come Back?”, Project Syndicate, 06/11/2018.
No comments:
Post a Comment