Những rào chắn hiến
pháp luôn kiềm chế tham vọng của tổng thống Mỹ
Victor Menaldo | DCVOnline
https://dcvonline.net/2025/01/20/nhung-rao-chan-hien-phap-luon-kiem-che-tham-vong-cua-tong-thong-my/
Lễ
nhậm chức lần thứ hai của Donald Trump đang đến, những lo ngại về việc ông đe dọa
nền dân chủ Mỹ lại một lần nữa gia tăng. Một số cảnh cáo đã trích dẫn ngôn từ
chuyên quyền của Trump, sự sẵn sàng phá hoại hoặc bôi nhọ những thể chế nhằm hạn
chế bất kỳ tổng thống nào và phong cách hiếu chiến cố gắng mở rộng quyền hành
pháp đến mức giới hạn.
Chủ
nghĩa chuyên quyền xói mòn quyền sở hữu tài sản và nền pháp trị, vì vậy thị trường
tài chính thường phản ứng mang tính báo động trước tình hình chính trị bất ổn.
Nếu giới đầu tư và tập đoàn lớn thực sự tin rằng Mỹ đang bên bờ vực độc tài, sẽ
có tình trạng tháo chạy vốn cỡ lớn, bán tháo cổ phiếu, tăng đột biến trong những
hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng của Mỹ hoặc lợi suất trái phiếu tăng mà không
thể giải thích được bằng những yếu tố kinh tế vĩ mô thông thường như dự báo lạm
phát.
Thay vào đó, không có dấu hiệu hệ thống nào về những phản ứng như vậy của thị
trường, cũng không có người đầu tư nào rời khỏi thị trường Mỹ. Hoàn toàn ngược
lại.
Sự vắng tiếng còi báo động này không phải là bằng chứng kết luận rằng nền dân
chủ sẽ an toàn mãi mãi, cũng không phải là Trump không thể gây thiệt hại cho nền
dân chủ Mỹ. Nhưng nó cho thấy rằng những tổ chức và giới đầu tư đáng tin cậy,
những người thực sự tin tưởng vào kết quả chính trị để kiếm sống, không coi chế
độ độc tài của Mỹ là sắp xảy ra hoặc thậm chí là có thể xảy ra.
Có lẽ là do cơ chế lật đổ nền dân chủ Mỹ sẽ cần phải vượt qua một mớ bòng bong
những rào cản về hiến pháp, hành chính, luật pháp và chính trị. Là một chuyên
viên kinh tế chính trị đã viết nhiều về nền tảng hiến pháp của những nền dân chủ
hiện đại, tôi xin trình bày rằng nó phức tạp hơn nhiều so với việc một tổng thống
ban hành những sắc lệnh hành pháp táo bạo.
Tuyên
ngôn Giải phóng Nô lệ đọc lần đầu tiên cho Nội các đánh dấu khoảnh khắc một tổng
thống nắm giữ quyền lực đáng kể. VCG Wilson/Corbis qua Getty Images
Tổng
thống Mỹ từ lâu đã nắm giữ nhiều quyền lực
Trong
suốt lịch sử Mỹ, nhiều tổng thống đã mở rộng quyền hành pháp lớn hơn nhiều so với
Trump trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông.
Abraham Lincoln đã đình chỉ lệnh bảo vệ nhân thân [giam giữ hoặc bỏ tù bất hợp
pháp] trong Nội chiến, cho phép giam giữ mà không cần xét xử. Ông đã qua mặt Quốc
hội bằng những hành động hành pháp toàn diện, đáng chú ý nhất là Tuyên bố Giải
phóng, tuyên bố tự do cho những người nô lệ ở những tiểu bang Liên minh miền
Nam.
Woodrow Wilson đã thành lập những cơ quan hành chính và áp đặt chế độ kiểm duyệt
hà khắc trong Thế chiến thứ nhất bằng Đạo luật Gián điệp năm 1917 và Đạo luật
Chống kích động năm 1918.
Kế hoạch cơ cấu thẩm phán vào tòa án của Franklin D. Roosevelt đã không được
thông qua, nhưng nó vẫn khiến Tối cao Pháp viện phải khuất phục. Bộ máy quan
liêu New Deal của ông đã tập trung quyền lực to lớn vào nhánh hành pháp.
Lyndon B. Johnson đã đạt được Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, chuyển giao quyền tuyên bố
chiến tranh chính từ Quốc hội sang tổng thống. Richard Nixon đã viện dẫn đặc
quyền hành pháp và ra lệnh bí mật ném bom ở Campuchia, những bước phần lớn bỏ
qua sự giám sát của quốc hội.
George W. Bush đã mở rộng những đặc quyền hành pháp sau ngày 11/9 bằng cách
nghe lén không cần lệnh và giam giữ vô thời hạn. Barack Obama đã phải đối phó với
sự chỉ trích vì lý do luật pháp đáng ngờ đằng sau những cuộc tấn công bằng máy
bay không người lái nhắm vào công dân Mỹ được coi là chiến binh thù địch ở nước
ngoài.
Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn những ví dụ lịch sử này với khả năng thực sự áp đặt
chế độ một người độc tài cai trị. Mỹ, bất kể những khiếm khuyết của nó, có một
hệ thống kiểm tra và cân bằng sâu sắc đã nhiều lần ngăn chặn những tổng thống của
cả hai đảng khi họ muốn cai trị bằng sắc lệnh.
Phong cách công khai hiếu chiến của Trump theo nhiều cách kém tinh thông hơn
trong việc củng cố quyền lực của tổng thống so với nhiều người tiền nhiệm của
ông. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã công khai tuyên bố ý định của mình một
cách minh bạch đến mức nó đã kích động nhiều lực lượng thể chế – thẩm phán,
công chức, viên chức chính phủ, tổng thanh tra – chống lại những nỗ lực của
ông. Trong khi lời lẽ của Trump mang tính kích động hơn, những tổng thống khác
đã đạt được quyền lực mạnh hơn của nhánh hành pháp một cách kín đáo hơn.
Phó
Tổng thống Mike Pence chủ trì việc chứng nhận kết quả bầu cử tổng thống năm
2020 vào ngày 6 tháng 1 năm 2021. Saul Loeb/POOL/AFP qua Getty Images
Kế
hoạch ngày 6 tháng 1 của Trump chưa bao giờ là chuyện thực tế
Việc
Trump không thể áp đặt ý chí của mình trở nên quá rõ ràng vào ngày 6 tháng 1
năm 2021, khi những tuyên bố rằng một “cuộc đảo chính tự động” đang diễn ra
không bao giờ được chuyển thành cơ chế thực tế có thể giúp ông giữ dduojc quyền
lực sau khi hết nhiệm kỳ.
Ngay cả trước khi Đạo luật Cải cách Đại cử tri làm rõ hơn quy trình vào năm
2022, những học giả đã đồng ý rằng theo Tu chính án thứ 12, vai trò của phó tổng
thống trong việc chứng nhận cuộc bầu cử hoàn toàn là mang tính biểu tượng,
không có cơ sở hiến pháp nào để ông thay thế hoặc loại bỏ phiếu đại cử tri đã
được chứng nhận. Tương tự như vậy, luật của tiểu bang quy định rằng chứng nhận
là nhiệm vụ hành chính bắt buộc, ngăn cản những viên chức chính phủ tùy tiện từ
chối chứng nhận kết quả bầu cử.
Nếu Pence từ chối chứng nhận số phiếu của Đại cử tri, thì hẳn là tòa án sẽ
nhanh chóng ra lệnh cho Quốc hội tiến hành. Hơn nữa, Tu chính án thứ 20 đã ấn định
trưa ngày 20 tháng 1 là thời điểm kết thúc nhiệm kỳ của tổng thống sắp mãn nhiệm,
khiến Trump không thể tiếp tục nắm quyền chỉ bằng cách gây ra sự chậm trễ hoặc
đánh hỏa mù.
Nếu tưởng rằng việc Pence từ chối chứng nhận có thể xóa bỏ những phiếu bầu được
tiểu bang chứng nhận hoặc ép buộc Quốc hội chấp nhận những danh sách thay thế
không có cơ sở vững chắc về luật pháp hoặc tiền lệ. Sau ngày 20 tháng 1, tổng
thống sắp mãn nhiệm không còn giữ chức vụ nữa. Do đó, chuỗi sự kiện cần có để
thực hiện một cuộc đảo chính tự động xảy ra vào năm 2021 sẽ sụp đổ dưới sức nặng
của những thủ tục đã được thiết lập rõ ràng.
Trong
nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump đã ban hành một số lệnh hành pháp, nhưng vẫn có
những hạn chế đối với quyền hạn của tổng thống. Saul Loeb/AFP qua Getty Images
Một
bộ máy hành chánh khổng lồ
Những
con đường có thể dùng để củng cố quyền lực trong nhiệm kỳ thứ hai sắp tới của
Trump cũng rất hẹp. Bộ máy hành chính liên bang khiến tổng thống khó có thể cai
trị bằng sắc lệnh.
Riêng Bộ Tư pháp có khoảng 115.000 nhân viên, kể cả hơn 10.000 luật sư và
13.000 đặc vụ FBI, hầu hết họ là công chức được Đạo luật Cải cách Dịch vụ Dân sự
và luật tố giác bảo vệ. Họ có tiêu chuẩn nghề nghiệp riêng và có thể thách thức
hoặc tiết lộ sự can thiệp bằng chính trị. Nếu một chính quyền cố gắng loại bỏ họ
hàng loạt, chính phủ sẽ phải đi qua những tiến trình kháng cáo kéo dài, những
ràng buộc luật pháp, nhu cầu tiến hành một loạt những cuộc kiểm tra lý lịch mât
nhiều thời giờ và mất mát nghiêm trọng về kiến thức của tổ chức.
Những vụ loại bỏ công chức trước đây, gồm cả việc chính quyền George W. Bush sa
thải những công tố viên Mỹ vì động cơ chính trị vào năm 2006 và 2007, cho thấy
rằng sự giám sát của quốc hội và những hoạt động nội bộ của bộ vẫn có thể tạo
ra những phản kháng lớn, những vụ từ chức và bê bối cản trở sự can thiệp của
chính trị vào Bộ Tư pháp.
Những cơ quan quản lý độc lập cũng phản đối việc bị tổng thống chi phối. Nhiều
cơ chế được điều tiết sao cho không có quá ba trong số năm ủy viên có thể thuộc
cùng một chính đảng, bảo đảm một số biện pháp đại diện lưỡng đảng. Những ủy
viên thiểu số có thể dùng một loạt những thủ tục – trì hoãn bỏ phiếu, yêu cầu
nghiên cứu toàn diện, kêu gọi điều trần – để làm chậm hoặc năng chặn những đề
nghị gây tranh cãi. Điều này khiến một người lãnh đạo độc tài khó áp đặt chính
sách một cách đơn phương. Những ủy viên thiểu số đó cũng có thể cảnh cáo giới
truyền thông và Quốc hội về những hành động đáng ngờ, mời gọi điều tra hoặc
giám sát công khai.
Ngoài ra, phán quyết của Tối cao Pháp viện năm 2024 đã chuyển quyền giải thích
luật liên bang, do Quốc hội thông qua, ra khỏi những cơ quan chính phủ nhánh
hành pháp. Hiện nay, những thẩm phán liên bang đóng vai trò tích cực hơn trong
việc xác định ý nghĩa của những từ ngữ của Quốc hội. Điều này đòi hỏi những cơ
quan phải hoạt động trong phạm vi hẹp hơn và đưa ra bằng chứng vững mạnh hơn để
biện minh cho những quyết định của mình. Trên thực tế, một chính quyền hiện có
ít quyền hạn hơn để kéo dài những điều luật vì mục đích đảng phái hoặc độc đoán
mà không gặp phải sự phản đối của tòa án.
Những
thẩm phán liên bang có nhiều quyền hơn trong việc giải thích ý định của Quốc hội
so với những năm gần đây. Tối cao Pháp viện Mỹ
Những
lớp phòng thủ
Nền
dân chủ Mỹ có những điểm yếu, và những nền dân chủ khác đã sụp đổ dưới những
người nắm quyền hành pháp trước đây. Nhưng theo quan điểm của tôi, không hợp lý
khi chỉ rút ra những bài học hiển nhiên từ một số ít trường hợp cực đoan, chẳng
hạn như Hitler năm 1933 hoặc một số ít nhân vật lãnh đạo được bầu đã dàn dựng
những cuộc đảo chính tự động gần đây hơn ở những nền dân chủ mong manh hoặc
đang phát triển như Argentina, Peru, Thổ Nhĩ Kỳ và thậm chí là Hungary.
Mỹ nổi bật vì có một hệ thống liên bang phức tạp, những hoạt động pháp lý cố hữu
và nhiều lớp ma sát về mặt thể chế. Những biện pháp bảo vệ đó trong lịch sử đã
chứng minh là rất hiệu quả nhằm hạn chế sự can thiệp quá mức của tổng thống –
dù là tinh vi hay khoa trương.
Ngoài ra, những chính khách cấp tiểu bang, gồm cả tổng chưởng lý và thống đốc,
đã nhiều lần chứng minh rằng họ sẵn sàng thách thức sự can thiệp quá mức của
liên bang bằng việc kiện tụng và bất hợp tác.
Văn hóa chuyên nghiệp của quân đội dưới quyền kiểm soát của dân sự và lòng
trung thành với hiến pháp, được tòa án liên tục duy trì, cung cấp một biện pháp
bảo vệ khác. Ví dụ, vào năm 1952, phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ
Youngstown Sheet and Tube Co. kiện Sawyer đã đảo ngược lệnh của Tổng thống
Harry Truman rằng quân đội phải tịch thu những nhà máy thép tư nhân để bảo đảm
nguồn cung trong Chiến tranh Triều Tiên.
Tất cả những biện pháp kiểm tra mang tính thể chế đó được một xã hội dân sự vững
mạnh củng cố thêm có thể huy động những thách thức pháp lý, những cuộc vận động
và sự phản kháng của cơ sở. Những tập đoàn có thể gây ảnh hưởng kinh tế bằng những
tuyên bố công khai, những quyết định tài trợ cho chiến dịch và lập trường chính
sách – như nhiều tập đoàn đã làm sau ngày 6 tháng 1.
Kết hợp với nhau, những lớp kháng cự chồng chéo này khiến con đường dẫn đến chế
độ chuyên quyền trở nên khó khăn hơn nhiều so với những gì nhiều người quan sát
bình thường có thể nghĩ. Những biện pháp bảo vệ này cũng có thể giải thích tại
sao hầu hết người Mỹ đều cam chịu nhiệm kỳ thứ hai của Trump: Nhiều người có thể
đã nhận ra rằng thí nghiệm dân chủ của quốc gia không bị đe dọa – và có lẽ chưa
bao giờ bị đe dọa.
https://cdn.theconversation.com/avatars/1188606/width170/image-20240530-17-50tas4.jpg
Tác
giả |
Victor Menaldo, Giáo sư Khoa học Chính trị, Đồng sáng lập Diễn đàn Kinh tế
Chính trị, Đại học Washington
©
2025 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
----------------------------------------------------
Nguồn: How constitutional guardrails have
always contained presidential ambitions | Victor Menaldo | The Conversation |
January 16, 2025
No comments:
Post a Comment