5
điều nhạy cảm người miền Bắc nên biết về miền Nam
Trịnh Hữu Long - Luật Khoa
05/07/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/07/5-dieu-nhay-cam-nguoi-mien-bac-nen-biet-ve-mien-nam/
Vì sao người miền Nam rất nhạy cảm với
một số diễn ngôn và cách hành xử từ miền Bắc?
Người Sài Gòn. Ảnh:
Lonely Planet Experiences/ Klook
Sự khác biệt vùng miền là chuyện hết sức bình
thường, ở nước nào cũng có. Nhưng để cho những sự khác biệt đó trở thành lối ứng
xử kỳ thị vùng miền thì là đại họa, bởi nó là ngọn nguồn của bạo lực. Hiểu về
những điều khác biệt đó để tìm ra cách ứng xử phù hợp, do vậy, trở nên đặc biệt
quan trọng.
Sự khác biệt, và cả kỳ thị, mang tên Bắc Kỳ –
Nam Kỳ là một câu chuyện bắt buộc phải có lời giải trong một cộng đồng dân tộc.
Trong bài này, tôi xin chia sẻ một số hiểu biết rời rạc của bản thân nhằm giúp
những người miền Bắc như tôi hiểu hơn về vài điều nhạy cảm về chính trị của miền
Nam. Không có gì là tuyệt đối, tôi không quy chụp mọi thứ cho một vùng miền
nào, nhưng có những khác biệt đáng kể mang tính phổ biến.
Tôi không có ý lên án những người miền Bắc thiếu
tế nhị trong cách hành xử với người miền Nam, bởi chính tôi cũng chỉ học được
những điều dưới đây khi ngấp nghé độ tuổi 30. Và tôi viết những điều này với ý
thức rằng sự kỳ thị có thể đến từ cả hai phía. Không có tham vọng giải quyết hết
được mọi vấn đề trong một bài viết, tôi mạn phép thảo luận chuyện này từ một
góc còn ít được nói đến hiện nay.
1. Người miền Nam
nhìn “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” khác người miền Bắc
Người miền Bắc không có cách nào khác để nhìn
nhận giai đoạn lịch sử 1954 – 1975 ngoài “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. [1] Họ coi việc đất nước
bị chia cắt là không thể chấp nhận, coi Mỹ và chính quyền Sài Gòn là kẻ thù, và
coi người dân miền Nam là những nạn nhân cần phải được “giải phóng”.
Nhưng mọi chuyện rất khác khi nhìn từ lăng
kính của người miền Nam.
Họ coi một nửa đất nước – miền Nam – là một quốc
gia hoàn chỉnh có tên Việt Nam Cộng hòa (từ 1955). Góc nhìn này trùng khớp với góc
nhìn của công pháp quốc tế. [2]
Họ trân trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ của
Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, lá cờ này lại bị xa lánh, kỳ thị ở miền Bắc.
Họ không sống với lý tưởng phải “giải phóng”
miền Bắc. Toàn bộ giai đoạn 1954 – 1975 là cuộc đấu tranh gìn giữ miền Nam trước
các cuộc “xâm lăng” và “khủng bố” của miền Bắc. Nếu nghe lại các bài nhạc vàng,
ta dễ thấy họ gọi quân miền Bắc là “giặc”, “quân thù”. Rất nhiều người miền Nam
đã mất mạng ngay trên đất miền Nam dưới nòng súng của miền Bắc, đặc biệt là
trong trận Mậu Thân năm 1968. [3]
Họ coi chính quyền Sài Gòn là chính quyền hợp
pháp của họ. Họ kính trọng Tổng
thống Ngô Đình Diệm [4] của nền Đệ
nhất Cộng hòa, [5] họ lập ra Hiến pháp 1967 và bầu
ra chính quyền Nguyễn Văn Thiệu của nền Đệ nhị Cộng hòa. [6] Và mặc dù
có rất nhiều bất đồng với các quan chức, họ không coi chính quyền đó là kẻ thù.
Họ coi Mỹ là đồng minh, là một đất nước tiến bộ.
Thời Việt Nam Cộng hòa, người miền Nam coi việc đi Mỹ du học là một thành tựu lớn
trong đời. Họ nhìn lính Mỹ ở miền Nam như những người bảo vệ họ trước miền Bắc,
mặc dù có thể họ không hài lòng với việc có quân đội ngoại quốc trên đất Việt
Nam.
Góc ảnh Sài Gòn xưa
và nay. Ảnh: Khánh Hmoong via Flickr.
Khác với niềm tin mãnh liệt của người miền Bắc
thời kỳ đó, người miền Nam không có nhu cầu được giải phóng. Họ có một nền kinh
tế, giáo dục, kỹ nghệ, nông nghiệp phát triển hơn hẳn miền Bắc. Và đặc biệt, họ
có thứ tự do chính trị mà chính Hồ Chí Minh đã dành cả tuổi trẻ để tranh đấu
nhưng lại hoàn toàn vắng bóng ở miền Bắc.
Ngày 30/4/1975 với phần lớn người miền Nam là
ngày “mất nước” và là ngày bắt đầu một chuỗi bi kịch khổng lồ.
2. Người miền Nam
bị truy bức về chính trị sau năm 1975
Sau ngày mà người miền Bắc gọi là “giải phóng
miền Nam”, người miền Nam bắt đầu bị truy bức về chính trị.
Những ai từng đi lính hay làm việc cho chính
quyền Việt Nam Cộng hòa (kể cả giáo viên) đều bị đưa đi trại cải tạo. [7] Gọi
là trại cải tạo (re-education camp) nhưng về bản chất không khác gì các trại tập
trung (concentration camp) của phát-xít Đức ngày xưa. Có đến 21 trại cải tạo được
lập ra sau chiến tranh, giam giữ khoảng 300 nghìn người, trực tiếp ảnh hưởng tới
hàng triệu người khác. [8]
Người miền Nam bị bắt vào đây mà hoàn toàn
không qua bất kỳ một phiên tòa xét xử nào. [9] Họ phải lao động
khổ sai. Rất nhiều người đã chết ở đây, suy kiệt sức khỏe và tinh thần ở đây. Họ
bị giam giữ hàng năm, thậm chí hơn mười năm trời mà không được, hoặc rất ít khi
được gặp gia đình. Những ai sống sót trở về thì gia đình hoặc là cũng đã ly
tán, hoặc là khánh kiệt, bị chính quyền mới phân biệt đối xử, gặp khó dễ khi
làm giấy tờ, con cái không được đi học đại học, nhìn chung đã rơi xuống đáy xã
hội.
Người miền Bắc hay đùa cợt về việc “đi cải tạo”,
biến nó thành một thành ngữ mà không cân nhắc kỹ đến bi kịch khủng khiếp này của
hàng triệu người miền Nam. Với người miền Nam ngày nay, “đi cải tạo” vĩnh viễn
là một cơn ác mộng, một nỗi đau không bao giờ dứt.
3. Người miền Nam
bị bần cùng hóa sau năm 1975
Sau khi “giải phóng” xong, chính quyền mới áp
đặt nền kinh tế kế hoạch hóa, tập thể hóa lên toàn miền Nam. Ngày nay, chúng ta
biết rằng đó là một thảm họa kinh tế đã dẫn toàn bộ đất nước tới khủng hoảng trầm
trọng và ngấp nghé bờ vực sụp đổ vào thập niên 1980. [10] Cuộc
khủng hoảng đó nghiêm trọng tới nỗi Đảng Cộng sản phải thừa nhận sai lầm, từ bỏ
giáo điều kinh tế Mác – Lê-nin để “đổi mới”, chuyển sang kinh tế tư bản chủ
nghĩa, mà ngày nay họ gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
[11]
Cái nền kinh tế thị trường ngày nay, trên thực
tế, đã từng là một hiện thực ở miền Nam trước năm 1975. Chuyện mở công ty làm
ăn, phát hành cổ phiếu, giao thương với nước ngoài, tiếp nhận các nhà đầu tư nước
ngoài là chuyện hết sức bình thường.
Với một nền kinh tế thị trường tự do như vậy,
miền Nam đã có các đô thị thịnh vượng. Mặc dù mức sống ở nông thôn còn thấp
nhưng không đến mức đói khổ như miền Bắc, và cơ hội làm giàu luôn hiện hữu,
khác với miền Bắc coi làm giàu là chuyện sai trái.
Người miền Nam sau năm 1975 như bị đẩy xuống vực
sâu, bởi tài sản của họ bị tịch thu, doanh nghiệp phải đóng cửa, việc làm ăn
buôn bán bị cấm đoán, hàng hóa tắc nghẽn vì ngăn sông cấm chợ, đường nhựa ở đô
thị bị cày lên trồng khoai, rất nhiều người bị đưa đi các vùng kinh tế mới,
v.v.
Cùng với nạn truy bức chính trị thì việc bị bần
cùng hóa về kinh tế như vậy càng làm dày thêm tấn bi kịch của họ.
4. Người miền Nam
phải liều mạng bỏ nước ra đi
Người miền Bắc hay đùa cợt chuyện “vượt biên”
nhưng không biết gì đáng kể về phong trào vượt biên ở miền Nam sau năm 1975.
Vì bị truy bức chính trị, bị bần cùng hóa về
kinh tế, và bị phân biệt đối xử nặng nề, rất nhiều người miền Nam đã đi đến một
quyết định táo bạo, và với họ là quyết định duy nhất hợp lý: liều mạng vượt
biên đi tìm một cuộc sống mới. [12]
Các thuyền nhân Việt
Nam phải bỏ Tổ quốc ra đi trong thập niên 1970-80. Ảnh (từ trái qua): Gerhard
Joren/LightRocket/ Getty Images, U.S. National Archives and Records
Administration, Michel Setboum/Getty Images.
Ước tính có hơn một triệu người đã vượt biển bằng
thuyền với hy vọng được tàu nước ngoài cứu hoặc đến được với bờ biển của các nước,
vùng lãnh thổ láng giềng như Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Hong
Kong. Họ trở thành một hiện tượng lịch sử, một thảm họa nhân đạo có tên “Thuyền
nhân Việt Nam” (Vietnamese Boat People). Hàng trăm ngàn người trong số họ chết trên biển. Số
còn lại đạt được mục đích và sau này đi định cư ở các nước như Mỹ, Canada, Úc
và một số nước châu Âu. Một số ít khác đến Ấn Độ, Nhật, tùy thuộc vào việc họ
được tàu nước nào cứu. Họ ngày nay trở thành phần lớn của cộng đồng người Việt
hải ngoại.
Một số khác thì vượt biên đường bộ sang
Campuchia rồi tới Thái Lan. Số này không nhiều bằng thuyền nhân.
Khi ra đi, họ mang tâm thế rằng nếu đi được sẽ
liên lạc về gia đình, gửi tiền về nuôi gia đình, và nếu thuận lợi thì sẽ tìm
cách đưa gia đình ra nước ngoài. Thực tế là sau khi đã định cư được ở các nước
tự do, họ đã làm thủ tục bảo lãnh đưa gia đình sang.
“Tị nạn” là một từ hay bị mang ra để chế giễu ở
miền Bắc, nhưng họ không biết rằng với hàng triệu người miền Nam, đi tị nạn từng
là lối thoát duy nhất cho cuộc sống của họ.
5. Bi kịch của người
miền Nam chưa bao giờ được thừa nhận
Tất cả những bi kịch khổng lồ như vậy của người
miền Nam chưa bao giờ được thừa nhận, chứ chưa nói gì đến một lời xin lỗi từ
chính quyền.
Họ không được thừa nhận là đã bị truy bức
chính trị.
Họ không được thừa nhận là đã bị cướp mất kế
sinh nhai.
Họ không được thừa nhận là đã bị phân biệt đối
xử nặng nề.
Họ không được thừa nhận là đã bị ép vào đường
cùng phải liều mạng bỏ Tổ quốc ra đi.
Không những không được thừa nhận, không được
xin lỗi, năm nào người miền Nam cũng phải chịu đựng những lời ngợi ca “chiến thắng
30/4”. Nghĩa trang quân nhân Việt Nam Cộng hòa không có mấy ai chăm sóc, bị
hoang hóa đi theo thời gian. Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa bị chính quyền bỏ
mặc, phải nương tựa vào nhau và vào sự hỗ trợ của cộng đồng. Trong khi đó, những
người miền Nam xưa kia bỏ nước ra đi giờ đây đang gửi mỗi năm hàng chục tỷ
đô-la tiền mặt về nước (trong tổng số kiều hối năm 2020 là 17,2 tỷ USD). [13]
Với chừng ấy vết thương mà lịch sử để lại, người
miền Nam trở nên đặc biệt nhạy cảm với hàng loạt từ, ngữ, diễn ngôn chính trị
cũng như cách hành xử. Người miền Bắc nên biết rằng những vết thương này chưa
bao giờ được vá lại và nên chọn lấy cách ứng xử phù hợp nhất trong cả lời nói lẫn
hành động.
Luật Khoa hoan nghênh các quan điểm khác nhau. Mọi
bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.
Tài liệu tham khảo
1. Dân, B. N. (2015, April 23). Thắng
lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ
thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Báo
Nhân Dân.
2. Trung, N. Q. T. (2021b, April
29). 30/4 – Xâm lược hay giải phóng: Từ góc nhìn công pháp quốc tế.
Luật Khoa Tạp Chí.
https://www.luatkhoa.org/2017/04/30-4-xam-luoc-hay-giai-phong-tu-goc-nhin-cong-phap-quoc-te
3. Britannica, T. Editors of
Encyclopaedia (Invalid Date). Tet Offensive. Encyclopedia Britannica.
https://www.britannica.com/topic/Tet-Offensive
4. Quản, V. V. (2020, April 22). Cuộc
trưng cầu dân ý đưa Ngô Đình Diệm lên chức tổng thống có dân chủ? Luật
Khoa Tạp Chí.
5. Quản, V. V. (2021c, May 10). 8
điều đáng chú ý về Hiến pháp 1956 của Việt Nam Cộng hòa. Luật Khoa Tạp
Chí.
https://www.luatkhoa.org/2021/05/8-dieu-dang-chu-y-ve-hien-phap-1956-cua-viet-nam-cong-hoa
6. Quản, V. V. (2021a, March 28). Bầu
cử năm 1967 ở miền Nam: Dân chủ nhất trong lịch sử Việt Nam? Luật Khoa
Tạp Chí.
https://www.luatkhoa.org/2020/04/bau-cu-nam-1967-o-mien-nam-dan-chu-nhat-trong-lich-su-viet-nam
7. HOANG, T. (2016). From Reeducation
Camps to Little Saigons: Historicizing Vietnamese Diasporic
Anticommunism. Journal of Vietnamese Studies, 11(2),
43-95. Retrieved July 5, 2021, from https://www.jstor.org/stable/26377909
8. Kiernan, B. (2017). Chapter 11: The
Making of Comtemporary Việt Nam, 1975–2016. In Việt Nam – A history
from earliest times to the present (pp. 452–455). Oxford University
Press.
9. Vi, Q. (2020, March 4). Trại
cải tạo sau 30–4-1975: Lục lại một báo cáo của Ân xá Quốc tế năm 1981. Luật
Khoa Tạp Chí.
10. Kimura, T. (1986). Vietnam–Ten Years
of Economic Struggle. Asian Survey, 26(10), 1039-1055.
doi:10.2307/2644255
11. ANU E Press Board, Viet Nam: A
Transition Tiger? The Introduction of Doi Moi,The Australia
National University E Press (2003)
65.internet. 27desember 2015.
12. Quan Tue Tran. (2012). Remembering
the Boat People Exodus: A Tale of Two Memorials. Journal of Vietnamese
Studies, 7(3), 80-121. doi:10.1525/vs.2012.7.3.80
13. Vũ – Đ. (2021, May 17). Hơn
17,2 tỷ USD kiều hối đổ về Việt Nam trong năm 2020. VnEconomy,
https://vneconomy.vn/hon-17-2-ty-usd-kieu-hoi-do-ve-viet-nam-trong-nam-2020.htm
No comments:
Post a Comment