24/05/2020
Truyền thống đại học ở Mỹ
và Oxford, Cambridge ở Anh gọi buổi lễ tốt nghiệp cho sinh viên sau 4 năm dùi
mài kinh sử là Commencement (sự khởi đầu) vì đúng là như vậy, đây là sự kiện khởi
đầu cho những người trẻ đang chuẩn bị vào đời.
Elissa
DeFranceschi, tốt nghiệp Đại học Drexel năm 2020, với bạn trai ở Philadelphia.
Nguồn: Hannah Beier
Với một người, tốt nghiệp
đại học là một bước chuyển tiếp rực rỡ, chặng cuối cùng của hành trình từ niên
thiếu sang làm người lớn thật sự, một bước chuyển hầu như chắc chắn phải xảy
ra, không giống như những giai đoạn chuyển tiếp khác trong cuộc đời. Những mối
quan hệ (tình yêu, hôn nhân, bằng hữu) chấm dứt vì tan vỡ, hay một trong hai
người qua đời. Công ăn việc làm chấm dứt vì người ta bỏ việc, hay bị sa thải.
Nhưng đời sống sinh viên đại học là một trong những thứ hiếm hoi của con người
chấm dứt vì một sự khởi đầu mới tinh khôi, ngoại trừ tình cảnh khi mà một sự khởi
đầu mới tinh khôi đã không xảy ra.
Một buổi sáng tháng 3,
Clavey Robertson, trong lúc nghỉ xả hơi giữa giờ học, tìm cách lần mò leo lên
mái vòm ký túc xá của trường đại học Berkeley, California. Trọn năm nay anh đã
vùi đầu vào việc chuẩn bị luận án tốt nghiệp về tình trạng xói mòn của mạng lưới
an toàn xã hội kể từ cuộc đại suy thoái, nên Clavey cần để đầu óc được nghỉ
ngơi, thư giãn. Từ khoảng cách khá xa, anh có thể nhìn thấy một chấm trắng nho
nhỏ: đó là chiếc du thuyền Diamond Princess đang bỏ neo vùng vịnh San
Francisco. Trên tàu là những nhân viên phục vụ đã bị nhiễm virus Covid-19.
Hannah Beier, tốt nghiệp Đại học Drexel năm 2020,
ngành nhiếp ảnh, đã chụp ảnh các bạn cùng lớp trong khi cách ly. Cô đăng loạt ảnh
chân dung này qua FaceTime. Ảnh chụp bởi Hannah Beier cho tuần báo Time số ra
1/6/2020
Hai tháng sau, bước chuyển
lên làm người hoàn toàn trưởng thành của Clavey đã bị bế tắc. Anh bỏ không theo
dõi buổi lễ tốt nghiệp tổ chức qua mạng và về nhà, sống trong căn phòng thuở ấu
thơ nay đã biến thành phòng ngủ dành cho khách vãng lai. Cha mẹ anh bị mất việc
làm ở một văn phòng chuyển vận du lịch. Còn chính Clavey cũng mất hy vọng với
triển vọng kiếm việc làm. Clavey than thở: “Tôi không còn là một sinh viên
viết luận án về thời kỳ đại suy thoái nữa. Giờ đây, tôi đang sống giữa thời kỳ
suy thoái”.
Thời kỳ hậu đại học được
đánh dấu bằng một giai đoạn tự điều chỉnh, khi các sinh viên rời bỏ mọi tiện
nghi quen thuộc của mái trường đại học để chuẩn bị bước vào thị trường việc làm
đầy tính bất trắc và cũng đầy chai sạn. Đặc biệt năm nay, các sinh viên tốt
nghiệp đã phải đối đầu với một thực tế có nhiều khía cạnh khác thường khiến họ
đã không thể nhận diện được. Hơn 90,000 người Mỹ đã tử vong [do đại dịch]. Hàng
chục triệu người mất công ăn việc làm. Toàn bộ nền công nghiệp đất nước có nguy
cơ sụp đổ.
Con virus của đại dịch đã
gây ra những chấn động kinh tế làm rúng động mọi thành phần lứa tuổi trong xã hội.
Ra trường đại học giữa cơn hoành hành của đại dịch Covid-19 sẽ để lại những dấu
ấn vĩnh viễn cho sinh viên tốt nghiệp (lớp 2020): Trong hồi ức, trong khả năng
kiếm sống, và trong cách nhìn nhận ý nghĩa của sự phân công xã hội. Đối với những
người trẻ vừa bước vào đời này, cơn đại dịch không chỉ là một cuộc khủng hoảng
mang tầm vóc quốc gia, mà còn là khoảnh khắc quyết định cho cuộc đời sắp tới của
họ.
Joshua McCaw, tốt nghiệp đại học Drexel University
2020, trong căn phòng ngủ thời thơ ấu của anh ở Brooklyn. Ảnh: Hannah Beier
Ngay cả thời kỳ trước đại
dịch Covid-19, lớp tốt nghiệp trong năm 2020 ở vào thời điểm cũng đã biết thế
nào là sợ hãi và bất trắc. Phần lớn trong số họ được sinh ra vào năm 1997, 1998
– thuộc về lứa tuổi lớn nhất của thế hệ Z (Người dịch: Thế hệ Z sinh vào những
năm 1997 và 2012. Gọi là thế hệ Z vì căn cứ theo thế hệ X – sinh từ 1960 đến
1980, kế đó là thế hệ Y – millennials – sinh khoảng giữa 1980s và 1990s. Sau thế
hệ Z sẽ là thế hệ A, tức Alpha). Khi biến cố 9/11 xảy ra thì họ
đang ở vào độ tuổi nhà trẻ hay đi học mẫu giáo. Thời thơ ấu của học được đánh dấu
bởi những cuộc nổ súng chết (học trò) ở trường học và những thay đổi khí hậu khắc
nghiệt. Năm đầu tiên khi họ bước chân vào đại học cũng là năm Donald Trump đắc
cử tổng thống; năm cuối cùng rời đại học là năm cả thế giới kinh hoàng vì khủng
hoảng đại dịch.
Simone Williams, tốt nghiệp
trường đại học A&M ở Florida, phát biểu trong dịp lễ tốt nghiệp tổ chức
trên mạng ngày 9 tháng 5: “Chúng tôi đặt chân vào thế giới lúc nó đang rã ra
từng mảnh. Đó là biến cố làm cho vận mệnh sắp tới của thế hệ chúng tôi khác biệt
hẳn với những người chỉ đi trước hoặc đi sau chúng tôi vài năm”.
Các nhà nghiên cứu đã
khám phá ra rằng, đối với một công dân, những biến cố quan trọng xảy ra trong
giai đoạn từ độ tuổi 14 đến 24, sẽ có tác động mạnh đến việc hình thành thái độ
chính trị trong suốt quãng đời còn lại của họ. Thế hệ tốt nghiệp năm 2020 cho
thấy, họ đã bị ảnh hưởng. Theo một cuộc thăm dò của Viện Chính trị, thuộc trường
đại học Harvard đối với những người Mỹ trẻ tuổi, chỉ có 8% người Mỹ – có độ tuổi
từ 18 đến 29 – tin rằng chính quyền đã thực hành chức năng của mình như đã được
người dân mong đợi; chưa tới 20% xem họ là những người “rất yêu nước”. Thế hệ
trẻ Mỹ đang tỏ ra rất hoài nghi sự hữu hiệu của các cơ chế chính phủ và đòi hỏi
phải có thêm nhiều giải pháp mới; nói cách khác, họ thất vọng với hệ thống hiện
tại, nhưng vẫn bám vào hy vọng sẽ có được một hệ thống mới tốt đẹp hơn trong
tương lai.
Brooke Yarsinsky, tốt nghiệp đại học Drexel năm
2020, mừng sinh nhật mình trong căn bếp gia đình ở Marlton, New Jersey. Ảnh:
Hannah Beier
Có lẽ dấu ấn vĩnh viễn
trong tâm thức những người trẻ thế hệ Z của năm 2020 được định hình bởi những
gì kế tiếp sẽ xảy ra. Nếu đội ngũ công nhân trẻ bị buộc phải tự mình lo liệu lấy
mọi thứ và với tình trạng thất nghiệp hàng loạt của họ tiếp tục như hiện nay, một
tâm trạng hoàn toàn vỡ mộng và tuyệt vọng rộng khắp sẽ là đặc tính vĩnh viễn gắn
liền với thế hệ của họ. Phải cần đến một giải pháp thật hữu hiệu, thật mạnh mẽ,
đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của những tài năng trẻ này mới mong phục hồi
được niềm tin của họ vào cơ chế.
Hiện nay, thế hệ Z của
2020 vẫn chưa biết rõ trận đại dịch sẽ có những ảnh hưởng như thế nào đối với
tương lai của mình. Họ chỉ biết một điều là đại dịch sẽ thay đổi cuộc sống của
họ. Adrian Rivera, sinh viên khoa Sử trường đại học Yale, quả quyết: “Mọi thứ
đều bị lung lay. Chính ở khoảnh khắc sống còn này chúng tôi sẽ không bao giờ
quên điều gì đã làm hoặc điều gì chưa làm”.
***
Trường học thường là nơi ẩn
náu để tránh những cơn thịnh nộ của lịch sử. Nhưng những biến cố có tác động
làm gián đoạn nếp sinh hoạt thường ngày của lớp học, từ sự kiện tổng thống
Kennedy bị ám sát, đến cuộc khủng bố 9/11, lại có khuynh hướng ở mãi với ký ức
của giới sinh viên.
Đại dịch Covid-19 đã làm
gián đoạn nhiều sinh hoạt trường học hơn tất cả mọi biến cố khác trong lịch sử
Hoa Kỳ. Khởi đầu là một phản ứng khá chậm chạp: ngày 6 tháng 3, trường đại học
Washington loan báo hủy bỏ tất cả các lớp học tại trường cho 57,000 sinh viên của
mình. Kế đến, trường đại học Stanford nối gót. Vài ngày sau, từ trường Harvard
cho đến đại học Michigan, thông báo các lớp học sẽ chuyển tiếp dưới hình thức
online. Chẳng bao lâu, hàng trăm trường đại học cũng làm giống như vậy.
Ben Scofield, tốt nghiệp đại học Drexel University
năm 2020, ngồi trên giường trong căn hộ mới thuê ở khu Bushwick, Brooklyn. Ảnh:
Hannah Beier
Thứ sáu ngày 13 tháng 3,
một sự im lặng rợn người bao trùm lên các trường đại học toàn nước Mỹ. Vincent
Valeriano, sinh viên tốt nghiệp năm 2020 của trường Iowa State, cảm nghĩ: “Có
điều gì đó lạ lùng khó hiểu về cái ngày (thứ Sáu 13) đó, bởi vì mỗi lần bạn bè
chúng tôi chào chia tay và nói ‘hẹn gặp sau nhé!’ hay ‘gặp lúc ra chơi nhé!’
tôi đều có cảm giác khiến lòng chùng xuống là tôi sẽ không gặp lại bạn mình nữa.
Lời tạm biệt dường nặng nề hơn lúc bình thường”. Kết cuộc là, Vincent
ngồi ở nhà trong bộ quần áo mặc ngủ và xem buổi lễ tốt nghiệp của chính mình
trên TV.
Với những sinh viên từ
năm thứ ba trở xuống, khóa học bị thu ngắn lại là một sự gián đoạn đầy bực bội.
Với sinh viên năm tốt nghiệp, thì lại là một biến động thật đột ngột. Sam
Nelson, vừa tốt nghiệp ngành báo chí ở trường đại học Missouri, nhận xét: “Sẽ
không thể có cái gọi là kết thúc. Tôi biết rằng trong đời sống thật, sự kết
thúc đơn giản không hiện hữu, nhưng đây là những khoảnh khắc cuối cùng để tuổi
trẻ chúng tôi nói lời chia tay với một đoạn đời vừa trải qua và sẵn sàng bước
vào một phần đời mới trước mặt”.
Thế hệ tốt nghiệp năm
2020 ôm nhau để cùng nhau nuối tiếc về khóa học cuối cùng đã bị mất, rồi tản
mác ai về nhà nấy với những lời tạm biệt không đủ gởi đến nhau, những người bạn
đã từng sống bên nhau hàng mấy năm trời. Những kẻ quen người biết gặp nhau giữa
sảnh đường, cùng cười cùng đùa giỡn năm ba câu trong các buổi hội họp đã đơn giản
biệt tăm. Các hội đoàn sinh viên nam nữ hủy bỏ các buổi họp mặt thường kỳ, các
hoạt động từ thiện, để rồi cố tạo ra những cuộc vui gặp gỡ chén thù chén tạc
qua Zoom (Người dịch: Một ứng dụng phần mềm giúp mọi người hội họp với nhau qua
đường truyền internet) nhưng vẫn không tạo lại được cái hồn của cuộc sống thật.
Với một số cuộc tình mới chớm, những gặp gỡ bất chợt bỗng trở thành sự gắn bó
dù là từ một khoảng cách xa xăm. Một số khác lặng lẽ cố quên đi chút mê đắm thời
đại học rồi cất bước rời trường không một lời từ giã.
Sarah Pruitt, tốt nghiệp đại học Drexel University
khóa 2020, ở nhà với mẹ tại Colchester, Connecticut. Ảnh: Hannah Beier
Sự thiếu vắng của một sự
kiện quan trọng như buổi lễ tốt nghiệp đại học đã trở thành nỗi day dứt đặc biệt
đối với một số gia đình. Trong ngày được coi là ngày tốt nghiệp, Arianny
Pujols, người đầu tiên được sinh ra tại Mỹ trong một gia đình di dân, cũng là
người đầu tiên của gia đình tốt nghiệp đại học, vẫn ăn mặc và trang điểm đầu
tóc như thể cô sẽ trịnh trọng bước lên bục để nhận bằng tại đại học Missouri
State. Cô và gia đình đã tổ chức một buổi lễ ăn mừng nho nhỏ ở sân sau nhà ông
nội. Sau đó, Arianny bước ra lề đường với khăn áo mũ mãng tốt nghiệp, tay cầm tấm
bảng có hàng chữ “Xin bấm kèn mừng, tôi đã tốt nghiệp rồi đấy!” (Honk, I did
it!) giơ lên mỗi lần có xe cộ đi ngang qua.
Brenda Sanchez, 22 tuổi,
cha mẹ là di dân đến từ Mexico, cho biết, cha mẹ cô sẽ tiếc vô cùng hai buổi lễ
tốt nghiệp, một của cô tại đại học Humboldt State ở California và một của người
em cô vào hôm sau. “Cha mẹ tôi không được đi học. Họ không bao giờ có buổi lễ
ra trường”. Brenda, bản thân cũng là một di dân, nhờ chương trình DACA
của tổng thống Obama nên chưa bị trục xuất về nước, nói tiếp: “Mình cũng cảm
thấy buồn chút xíu. Mình cố gắng học để đạt được mảnh bằng, nhưng lại không được
thấy chính mình bước lên bục nhận bằng”.
Thay vì học hành xong
xuôi rồi hăm hở tiến về tương lai, nhiều người trẻ 2020 lại có cảm tưởng như
mình đang đi thụt lùi. Ilana Goldberg, tốt nghiệp đại học Tufts trong một buổi
lễ trên mạng, phát biểu. “Chúng tôi đã sẵn sàng để bước vào cuộc đời với tư
cách một người lớn trẻ tuổi – có lẽ không hẳn là một người lớn đứng đắn, có lẽ
là một người lớn vụng về – nhưng dù gì thì cũng vẫn là một thứ người lớn. Chúng
tôi không được coi là nằm trong cơ chế hiện hữu, nhưng lại chưa đủ xa ngoài tầm
của cơ chế ấy để có thể tự tìm chỗ đứng riêng của mình trong thế giới ấy”.
Eric Kolarik, lẽ ra sẽ phải
có mặt trong buổi lễ tốt nghiệp của đại học Michigan đầu tháng 5; thay vào đó,
cậu lại ở nhà, rẫy lá khô, rửa bát đũa phụ mẹ, làm cùng những công việc nhà như
khi còn là học sinh trung học. Cậu than van: “Năm nay tôi được 22 tuổi
nhưng lại sống đời sống của một cậu học trò Eric 15 tuổi. Coi như là một bước
khởi đầu thất bại rồi”.
***
Nếu như những người trẻ
thế hệ Z của 2020 biết được rằng, việc bị tước đoạt khóa học mùa xuân của năm
cuối cùng ở đại học chỉ là chuyện nhỏ nhất trong toàn bộ những khó khăn họ sẽ gặp
phải. Thật sự, những người trẻ này đang bị rơi xuống một cái lỗ hổng mênh mông
của mạng lưới an toàn xã hội, nằm lọt giữa cơn suy thoái kinh tế mà tác động của
nó sẽ định hình tương lai thế hệ 2020 trong thời gian hàng thập kỷ sắp tới.
Trước hết, họ đã bị mất
hoàn toàn thu nhập qua những công việc do trường cung cấp để trang trải các chi
phí sinh sống trong thời gian đi học. Một số đông có số giờ làm việc chưa đủ
dài để có thể nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp. Và nếu họ được khai là người lệ
thuộc (dependent) trong hồ sơ khai thuế của cha mẹ, họ sẽ không nhận được khoản
trợ cấp kích thích tiêu dùng $1,200 của chính phủ liên bang. Mặt khác, chưa ai
có đủ thời gian để xây dựng được cho mình một ngân quỹ để dành đáng kể.
Destiny, tốt nghiệp đại học Drexel University 2020,
tại nhà ở Palmyra, PA. Ảnh: Hannah Beier
John Della Volpe, điều
hành văn phòng trưng cầu ý kiến của viện nghiên cứu chính trị, đại học Harvard,
nhận xét: “Tôi không chắc họ hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của con số 25% thất
nghiệp ảnh hưởng một cách không tương xứng đối với thế hệ trẻ như thế nào”. Ông
nhắc tới lần suy thoái cuối cùng vừa rồi hồi năm 2009, những sinh viên tốt nghiệp
năm đó đã phải đánh vật với mọi cơ hội hiếm hoi có được, giống như họ tham dự vào
“trò chơi nghe tiếng nhạc giành ghế”. [Người dịch: Một loại trò chơi mà số ghế
luôn ít hơn người chơi 1 chiếc. Người chơi nghe theo tiếng nhạc mà đi vòng
quanh những chiếc ghế, hễ nhạc vừa dứt là phải nhanh tay đoạt lấy một chiếc ghế.
Vì số ghế ít hơn số người chơi 1 chiếc nên sẽ có người không có được ghế ngồi,
phải bị loại. Trong nội dung bài này, tác giả ám chỉ số người kiếm việc nhiều
hơn số việc đang có trên thị trường].
Với lớp sinh viên tốt
nghiệp của năm 2020, tình hình lại hoàn toàn tương phản. Họ bị đông cứng tại chỗ
vì đại dịch, cùng lúc với tất cả mọi người khác cũng bị buộc phải ở trong nhà.
Della Volpe nói tiếp. “Hầu như không có một cơ hội ở bất cứ khu vực kinh tế
nào. Giống hệt một cuốn phim hoạt họa đang chiếu bị ngưng lại”.
Theo một cuộc thăm dò của
hiệp hội quốc gia các trường đại học và hãng xưởng hồi tháng 4, thì 20% các
công ty cho biết, họ đang tìm cách hủy bỏ những hợp đồng nhận sinh viên vào học
việc của mùa hè (summer internship) năm nay. Kể từ giữa tháng 2 cho đến nay,
con số việc làm tuyển dụng thông báo trên mạng lưới ZipRecruiter đã bị giảm sút
gần phân nửa. Trong khi đó, cũng theo lời nhà kinh tế học về lao động Julia
Pollak của ZipRecuiter, con số việc làm dành cho lực lượng nhân công ở mức chưa
có kinh nghiệm (entry-level) giảm hơn 75%. Chỉ mới một năm trước đây, những người
đi xin việc với kinh nghiệm ít ỏi có thể dễ dàng có việc làm với đồng lương tuy
chưa cao nhưng sẽ nhanh chóng được tăng và những triển vọng sáng sủa cho công
việc của mình. Còn bây giờ thì, như Pollak cho biết: “Đối với những người
mới tốt nghiệp, tình hình còn đặc biệt khó khăn hơn”.
Sanchez đã phải làm một
lúc hai công việc khác nhau, kể cả việc mở một cơ sở gắn lông mi giả để có thể
trang trải các chi phí cho việc học hành của mình – trong mấy tuần lễ liên tiếp,
đã gởi đi 70 lá đơn xin việc mà vẫn chưa có hồi âm. Williams, vốn mơ ước được
làm việc trong ngành kỹ nghệ giải trí, cũng không may mắn gì hơn với 15 lá đơn
và hoàn toàn mất hy vọng với việc có thể xin một fellowship làm việc nay đã ngừng
không nhận thêm thành viên mới; giờ thì cô đành làm bất cứ việc gì miễn không bị
ràng buộc cho qua ngày. Robertson đã dự định sẽ cố tìm một công việc trong lãnh
vực hoạt động công đoàn; với tình hình hiện nay, có lẽ anh sẽ phải nghĩ đến việc
quay trở lại trường tiếp tục học cao hơn nữa.
Không chỉ những công việc
mơ ước của nhiều người đã biến mất khỏi thị trường. Thực tế cho thấy, rất nhiều
người trẻ sẵn sàng làm những công việc trong khu vực buôn bán lẻ hay nhà hàng,
tiệm ăn trong lúc chờ có được công việc mình mong ước. Theo cơ quan nghiên cứu
Pew, trong ngót nghét tổng số 19 triệu công nhân ở độ tuổi từ 16 đến 24, có tới
9 triệu người làm việc trong khu vực dịch vụ. Đột nhiên, những công việc này bỗng
bốc hơi bay đi đâu mất.
Theo văn phòng thống kê về
lao động, chỉ riêng trong tháng 4, các ngành nghề trực tiếp phục vụ khách hàng
đã bị mất đi 47% số lượng nhân công, tức khoảng 7.7 triệu người bị thất nghiệp.
Điều đó có nghĩa là cuộc khủng hoảng kinh tế đã gây thiệt hại cho những người
trẻ tuổi nhiều hơn là các thành phần tuổi tác khác. Cũng theo Pew, hơn phân nửa
người Mỹ ở độ tuổi dưới 30 cho biết, trong gia đình họ có người bị mất việc hay
bị giảm lương vì ảnh hưởng của đại dịch và những người trẻ tuổi nhất là thành
phần bị ảnh hưởng nặng nề về tài chính hơn là những người thuộc thế hệ lớn tuổi
hơn.
Ra trường vào thời điểm
kinh tế suy thoái sẽ có thể có ảnh hưởng đến rất nhiều thứ từ khả năng thu nhập
đến tình trạng sức khỏe và hạnh phúc riêng trong cuộc sống. Các nhà nghiên cứu
cho biết, khởi sự nghề nghiệp ngay giữa cơn lốc của suy thoái có thể khiến ảnh
hưởng xấu đến thu nhập trong 10 năm kế tiếp, thậm chí còn gây ra thêm nhiều tác
động tệ hại khác cả hàng chục năm sau đó.
Một nghiên cứu của trường
đại học UCLA và Northwestern cho thấy, những người trẻ ở độ tuổi vào đời những
năm suy thoái kinh tế đầu thập niên 1980s có mức tử vong cao hơn, mức tỉ lệ ly
dị cao hơn và ít có con cái hơn. Till von Wachter, một học giả kinh tế về lao động,
người từng bỏ ra nhiều năm trời nghiên cứu về vấn đề này, đã đặt cho những người
trẻ tham gia lực lượng lao động vào thời điểm tệ hại nhất cái tên: “Người tốt
nghiệp kém may mắn”.
Hai chị em Camilla
Nappa, tốt nghiệp đại học Drexel University 2020 và Sophia Nappa, sinh viên năm
thứ 2 của NYU, tự cô lập ở nhà bố ở St. Louis. Nguồn: Hannah Beier
Thay vì can đảm xông pha
vào thị trường việc làm đang tơi tả vì đại dịch corona, nhiều người trẻ tốt
nghiệp năm 2020 tìm cách lánh nạn vào những chương trình học cao hơn. Lối thoát
đó có thể tạo thêm nhiều vấn nạn mới. Tính tới năm học 2019, gần 7 phần 10 sinh
viên tốt nghiệp mắc nợ vay để đi học, với trung bình là $30,000 một người. Theo
học chương trình sau đại học (cao học, tiến sĩ, nghiên cứu sinh) cũng có nghĩa
là sẽ phải vay thêm nợ. Sean Lange, dự định ghi tên vào một chương trình cao học
về chính sách công, sau khi tốt nghiệp từ đại học Stony Brook ở New York, cho
biết. “Tôi phải vay nợ để đi học tiếp, nhưng lại không có việc làm để kiếm
tiền trả nợ”. Tệ hơn nữa, Sean không chắc chắn việc theo học như vậy xứng
đáng với số tiền học phí $18,000 một năm phải trả. Nhất là các lớp học của anh
sẽ chỉ được giảng dạy online.
***
Tất cả những điều không
may này – những hồi ức bị bỏ quên, những lời giã biệt không mong đợi,
những cơ hội đã một đi không trở lại – sẽ còn bám theo những người trẻ
thế hệ Z của năm 2020 suốt đời. Jean Twenge, nhà tâm lý học và là tác giả của
“Igen”, nghiên cứu về thế hệ Z và thế hệ Y (Millennials), nhận xét: “Đại dịch
corona là một biến cố văn hóa lớn nhất kể từ sau thế chiến II. Nó có một tầm ảnh
hưởng to lớn lên tất cả mọi người, đặc biệt là lớp người trẻ”.
Magda tốt nghiệp đại học Drexel University 2020, với
gia đình ở Lynbrook, New York. Ảnh: Hannah Beier
Ngay cả trước khi có trận
đại dịch Covid-19, phần lớn thế hệ Z tốt nghiệp năm 2020 đã tỏ ra không hài
lòng với cách giải quyết của chính phủ về các vấn đề mà thế hệ của họ phải đối
đầu. Đây là những sinh viên đã từng tích cực tham dự phong trào đòi kiểm soát
súng ống “March For Our Lives”, thời điểm xảy ra những vụ nổ súng ở trường học
hầu như hàng tuần, và tổ chức tuần hành phản đối chính phủ đã thụ động trước biến
đổi khí hậu.
Trong chiến dịch tranh cử
năm 2008 của cựu tổng thống Obama, họ còn quá trẻ để có thể có tiếng nói tích cực,
nhưng đủ trưởng thành để bị thu hút bởi thông điệp về cách mạng tiến bộ của
Bernie Sander trong cuộc bầu cử sơ bộ 2016. Đó cũng chính là những người trẻ đủ
tuổi đi bầu và đã bỏ phiếu chống Donald Trump ở cuộc bầu cử tổng thống cùng
năm. Họ ủng hộ những cải cách về tiền nợ vay đi học của sinh viên, cũng như một
chương trình chăm sóc y tế toàn diện cho đất nước. Có thể nói, đây là thế hệ đa
chủng tộc nhất trong lịch sử Hoa kỳ.
Thái độ hoài nghi đối với
những cơ chế công quyền của họ phần lớn có nguyên nhân từ quan điểm của họ cho
rằng chính quyền đã làm quá ít và chưa đủ những việc phải làm. Một nghiên cứu hồi
năm ngoái của viện nghiên cứu Pew, cho thấy, 7 phần 10 dân Mỹ muốn chính quyền “phải
làm nhiều hơn nữa để giải quyết các vấn đề xã hội”. Sự khác biệt ý kiến
nằm ở khoảng cách thế hệ, không phải quan điểm chính trị: Hơn một nửa thế hệ Z
đòi hỏi chính quyền làm nhiều hơn. (Chưa tới 1 phần 3 những người Cộng Hòa ở lứa
tuổi già hơn đồng ý với họ).
Hầu như việc bắt buộc phải
sử dụng mạng xã hội đã góp phần làm trầm trọng thêm mức độ trầm cảm và lo lắng
của thế hệ Z, như nhà tâm lý học Jean Twenge nhận định. Trong lúc phân tích những
dữ liệu của cuộc thăm dò toàn quốc về sức khỏe và việc sử dụng thuốc, bà thấy rằng,
con số những người trẻ có triệu chứng trầm cảm nặng đã gia tăng 63%, từ năm
2009 đến năm 2017, với một bước nhảy vọt đáng chú ý vào thời điểm 2012, năm mà
số lượng người sử dụng điện thoại thông minh (smartphone) hầu như rộng khắp.
Trận đại dịch hiện nay lại
càng khiến tâm trạng của họ thêm phần lo lắng và vỡ mộng. Viện nghiên cứu Pew
còn phát hiện thêm rằng, thanh niên Mỹ ở độ tuổi từ 18 đến 29 dễ bị suy sụp
tinh thần vì đại dịch hơn là thế hệ lớn tuổi hơn họ; đồng thời họ cũng ít có hy
vọng vào tương lai hơn những công dân lớn tuổi, vốn là những người được cho là
dễ bị nhiễm bệnh gây ra bởi virus.
athryn Murashige, tốt
nghiệp đại học Drexel University 2020, trong căn nhà gia đình ở Kennett Square,
PA. Ảnh: Hannah Beier
Điều này giúp giải thích
tại sao những nhà hoạt động trẻ tuổi nhìn tình trạng ảm đạm hiện nay như là một
khoảnh khắc bây-giờ-hoặc-không-bao-giờ cho thế hệ của họ. Họ
biết rằng trận đại dịch sẽ định hình tương lai của họ, cho dù vẫn chưa biết
đích xác hình dáng ấy như thế nào. Varshini Prakash, một lãnh tụ của phong trào
Sức Mạnh Thế Hệ Z “Sunrise Movement”, phát biểu: “Hoặc là chúng ta sẽ
trở thành một thế hệ kiên cường hơn các thế hệ đàn anh. Hoặc chúng ta sẽ thuộc
về một thế hệ có khuynh hướng phủ nhận chính phủ, và sẽ ít muốn tham gia chính
trị vì chúng ta nhìn thấy cơ chế đã thất bại trong nhiệm vụ giúp đỡ chúng ta
vào thời điểm mà chúng ta cần đến họ nhiều nhất”.
Robert Reich là cựu bộ trưởng
Lao động, hiện giảng dạy môn Chính sách Công quyền tại đại học Berkeley,
California, nhận xét: “Nhóm người trẻ nhất nước Mỹ có thể bị chấn
thương suốt đời. Họ có thể sẽ tự rút lui hẳn cả ở khía cạnh kinh tế lẫn xã hội.
Họ có thể đã mất niềm tin vào tất cả các loại cơ chế, và hiện tại thì họ đang
thiên về khuynh hướng ấy”.
Ở những quốc gia khác, chẳng
hạn như Ai Cập, Tunisia và Tây Ban Nha, tình trạng thất nghiệp rộng khắp của giới
trẻ có học vấn đã dẫn tới những bất ổn xã hội hoặc cấp tiến quá khích, phần lớn
là do họ cảm thấy mình bị phản bội. Theo Heath Prince, một nhà khoa học nghiên
cứu của trường đại học Texas ở Austin, họ nghĩ: “Chúng tôi tin đã có một sự
đồng thuận, một loại công ước xã hội rằng, nếu chúng tôi tuân thủ mọi luật chơi
sẵn có thì chúng tôi sẽ được cung cấp công ăn việc làm sau khi tất cả những hỗn
loạn này chấm dứt”.
Cho đến nay, tình trạng
thất nghiệp của những người trẻ tuổi tại Mỹ phần lớn liên quan đến nghiện ma
túy và các quan điểm cực đoan cánh hữu – Prince nói thêm – và vẫn chưa gây nên
mầm mống gì gọi là sự nổi dậy tập thể. Thế rồi xảy ra tình trạng thất nghiệp
chưa bao giờ cao đến mức độ này trong gần 80 năm nay.
Robertson, tốt nghiệp đại
học Berkeley, California, chuyên ngành về Giao Ước Mới (New Deal), nói: “Thế
hệ chúng tôi không có cảm tưởng rằng chúng tôi được quan tâm đến hay được lắng
nghe. Cùng lúc đó, rất nhiều người trong chúng tôi lại bị tước đi tiếng nói về
mặt kinh tế. Tôi khẳng định rằng, rất nhiều anh em chúng tôi đã đánh mất niềm
tin của mình vào chính quyền”.
Theo một số học giả, các
sinh viên và các nhà hoạt động, cách duy nhất để đối phó với tình trạng thất
nghiệp tương tự như hồi đại khủng hoảng thập niên 1930s là chính quyền liên
bang phải có sự đáp ứng mang tầm cỡ như những cải cách thực hiện ở những năm
đó. Chính sách New Deal (Giao Ước Mới) của tổng thống Franklin D. Roosevelt khi
ấy gồm nhiều sáng kiến quan trọng, nhằm thúc đẩy giới công nhân trẻ tham gia lực
lượng lao động.
Sáu ngày sau khi nhậm chức
năm 1933, Roosevelt đề ra chương trình thực hiện những đề án công cộng gọi là
Civilian Conservation Corps (CCC): Trong vòng 4 tháng, chính quyền liên bang đã
mướn 300,000 công nhân trẻ đảm nhận công việc trồng cây, bảo trì công viên và
chăm sóc đường xá. 3 triệu người khác được thu nhận là công nhân làm việc cho
chương trình.
Năm 1935, Roosevelt thành
lập cơ quan quản trị thanh niên quốc gia (NYA: National Youth Administration)
trực thuộc cơ quan quản trị sự tiến triển của các công trình công cộng, nhằm tạo
điều kiện cho lớp công nhân trẻ vừa học vừa làm trong các lớp dạy nghề. (Chàng
thanh niên trẻ tuổi Lyndon B. Johnson – tức tổng thống Johnson sau này – có được
một dịp may chính trị rất sớm khi được đề cử làm quản trị trưởng của chương
trình NYA ở tiểu bang Texas lúc ấy). Những thanh niên trẻ tham dự đội
ngũ lao động trong thời kỳ New Deal sau này trở thành thành viên của đạo quân
yêu nước, quên mình, chiến đấu trong Thế chiến II, ngày nay được đặt tên là “thế
hệ vĩ đại nhất”.
Một số các dân cử thuộc đảng
Dân Chủ có ý kiến cho rằng, đại dịch Covid-19 cần một giải pháp đối phó tương tự.
TNS Elizabeth Warren của tiểu bang Massachusetts đã kêu gọi thành lập “một đạo
quân kiểm soát virus corona” (Coronavirus Containment Corps) để mở rộng lực lượng
y tế công cộng và đội ngũ những nhân viên theo dõi sự lây lan của dịch bệnh nhằm
chặn đứng sự hoành hành của con virus. (Warren, một người vốn ngưỡng mộ
chính sách New Deal, đã giải thích CCC là NO CoinCidenCe –không phải ngẫu
nhiên).
TNS Chris Coons (Dân Chủ ở
bang Deleware) TNS Bill Cassidy (Cộng Hòa, bang Louisiana) đã cùng phối hợp vận
động việc ban hành một đạo luật quốc gia, nhằm mở rộng chương trình Americorps
(một chương trình xã hội tự nguyện) với một ngân quỹ liên bang dành tuyển dụng
750,000 nhân viên sẽ được đào tạo thành một lực lượng y tế công cộng, đối phó với
Covid-19. Và những người đề xướng ra một Giao Ước Mới Xanh (Green New Deal) như
Prakash và nữ dân biểu Alexandria Ocasio-Cortez của tiểu bang New York đang nỗ
lực để định hình chính sách môi trường của ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ,
được cho là Joe Biden.
Với những người Cộng Hòa
hoài nghi, không muốn mở rộng các chương trình của chính phủ, nên không chắc
các đề xướng nói trên sẽ vượt qua được cửa ải Thượng Viện do Mitch McConnell,
Chủ tịch đảng Cộng Hòa chiếm đa số, hoặc qua khỏi bàn giấy của tổng thống
Donald Trump. Nhưng bối cảnh chính trị hiện nay đã nghiêng về các khuynh hướng
xã hội với việc phe Cộng Hòa bằng lòng phê chuẩn những chương trình phục hồi –
như việc gởi số tiền kích thích tiêu dùng $1,200/ người đến các công dân Mỹ –
mà mấy tháng trước đây không ai có thể nghĩ đến.
Và nếu như đảng Dân Chủ lấy
lại được đa số ở Thượng Viện và tòa Bạch Ốc thì những những chương trình cải
cách xã hội rộng lớn sẽ đến gần với thực tế hơn nhiều. Những người trẻ từ lâu
nghi ngờ khả năng của chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề to lớn của đất
nước, có thể sẽ khôi phục được niềm tin đã mất của mình. Lange, sinh viên theo
học môn chính sách công quyền của đại học Stony Brook, giải thích: “Tôi
không tin tưởng chính phủ hiện nay, bộ máy chính quyền hiện nay một chút nào hết.
Nhưng tôi vẫn có niềm tin ở một chính quyền lớn mạnh”.
Eric Kolarik đã dành toàn
bộ thời gian của khóa học cuối cùng ở đại học Michigan cho một luận án về trận
dịch cúm 1918. Hiện giờ, với các lớp học bị hủy bỏ và khả năng kiếm việc bị
đóng băng, sách gối đầu giường của Eric là quyển The Great Influenza (Trận cúm
vĩ đại – của John M. Barry) cùng với các quyển The Crucible (Cuộc thử thách – kịch
của Arthur Miller) và Of Mice and Men (Của chuột và người – của John Steinbeck).
Eric nhận xét: “Có một thứ gì đó tạm gọi là nhất trí với nhau giữa những người
thuộc thế hệ 2020 và điều đó chẳng phải là kỷ niệm hay ho gì. Người ta sẽ nói:
‘A! anh (chị) là người tốt nghiệp năm 2020’ và mọi người hiểu ngay câu nói ấy
mang ý nghĩa gì”.
Trận đại dịch đã đánh dấu
sự kết thúc một đoạn đời của thế hệ kém may mắn này. Và cuộc hồi sinh sẽ có thể
là mốc khởi đầu cho một đoạn đời khác của họ.
(Những bức ảnh trong bài do Hannah Beier hợp tác với
Melissa Nesta để chụp)
No comments:
Post a Comment