Trương
Nhân Tuấn
06/05/2020
Đọc báo nghe nói TQ sắp sửa tuyên bố vùng “nhận diện
phòng không – ADIZ” ở Biển Đông. Tin này đến từ nguồn Đài Loan.
Theo tôi sớm hay muộn gì
TQ cũng tuyên bố điều này. Trở ngại đến nay họ chưa tuyên bố được là vì TQ vẫn
chưa kiểm soát hoàn toàn các đảo TS. Luật lệ và tập quán quốc tế quy định rằng,
vùng “nhận diện phòng không – ADIZ” của quốc gia phải tương ứng với vùng lãnh
thổ và hải phận của quốc gia ở vùng biển quan hệ.
TQ có thể tuyên bố vùng
ADIZ vùng biển Hoa Nam, tương ứng với hải phận sinh ra từ các đảo Hoàng Sa và 7
bãi đá ở TS (được mở rộng thành đảo nhân tạo và xây dựng thành căn cứ quân sự).
Nếu TQ ra Tuyên bố như vậy,
các quốc gia trên thế giới có thể “im lặng” để thể hiện sự “đồng thuận”, hay ra
tuyên bố ủng hộ, hay phản đối, tùy theo họ thấy yêu sách của TQ có phù hợp với
luật lệ và tập quán quốc tế hay không.
Trường hợp
CHXHCNVN, há miệng mắc quai.
Công hàm 1958 của Phạm
Văn Đồng là một văn kiện ngoại giao có nội dung khẳng định sự “ủng hộ” của
VNDCCH, (nếu thực thể này có tư cách pháp nhân trước luật quốc tế), trước các
yêu sách về lãnh thổ và hải phận 12 hải lý của TQ thể hiện qua Tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958.
Tuyên bố về lãnh thổ và hải
phận của TQ ngày 4 tháng 9 năm 1958 là “nguyên nhân”, là “nguồn”, phát sinh sau
khi Hội nghị LHQ về Luật Biển 1956 và sự ra đời của các Hiệp đinh quốc tế về Biển
năm 1958. Tuyên bố 4-9-1958 của TQ vì vậy là hợp lý và cần thiết, để bảo vệ quyền
và lợi ích của TQ trong hoàn cảnh TQ không có “tư cách pháp nhân quốc tế” (vì
tư cách này thuộc chính phủ Đài bắc, cho tới năm 1971).
Tuyên bố “ủng hộ” của
VNDCCH vì vậy trở thành “ràng buộc”, đối với các yêu sách mà TQ đã liệt kê
trong bản tuyên bố 4-9-1958.
Phía VN hiện nay biện luận
rằng công hàm PVĐ chỉ giới hạn nội dung ủng hộ “hải phận 12 hải lý”.
Theo Công ước Vienne 1969
về “Luật của các công ước”, điều 30 nói về hiệu lực các công ước tuần tự ra đời
có chung một nội dung. Như trường hợp các Công ước về Luật Biển 1958 và Công ước
LHQ năm 1982 về Luật Biển (UNCLOS). Điều 30 khoản 2 công ước Vienne 1969 ghi rõ
hiệu lực Luật Biển 1982 sẽ thay thế Luật Biển 1958.
Tức là Tuyên bố 4-9-1958
của TQ về lãnh thổ và hải phận sẽ được giải thích và qui chiếu theo Luật Quốc tế
về Biển 1982.
Tức là sự “ủng hộ” của
VNDCCH, chiếu theo luật về thời hiệu, ở “hải phận 12 hải lý” sẽ nâng lên thành ủng
hộ “hải phận 200 hải lý”.
Học giả VN bây giờ “đôi
co” với TQ là công hàm PVĐ không ủng hộ chủ quyền của TQ ở HS và TS.
Điều này “hơi bị kẹt”. Bởi
vì nguyên tắc của luật pháp quốc tế đặt nền tảng trên sự “thành tín” (bonne
fois) giữa các quốc gia (Etat). Các hành vi đơn phương của quốc gia được quan
niệm là các yếu tố cấu thành luật quốc tế.
Tuyên bố của TQ ngày
4-9-1958 là “nguồn”, nếu nó không đi ngược lại các nguyên tắc luật lệ thì nó sẽ
phát sinh ra “luật”.
VNDCCH ủng hộ nội dung
Tuyên bố của TQ là “ủng hộ” bằng sư “thành tín”. Nó “ngược” lại VNDCCH đã “phạm
luật”.
Vì vậy cốt lõi của việc
hóa giải tuyên bố ADIZ của TQ (nếu có), hoặc hóa giải công hàm 1958 của PVĐ là
phải chứng minh VNDCCH không (hay chưa) phải là đối tượng của luật quốc tế. Tức
là VNDCCH không phải là “quốc gia độc lập có chủ quyền”. Điều này tôi đã nói đi
nói lại từ năm 2010.
No comments:
Post a Comment