Richard von
Weizsäcker - Der Spiegel
Dịch giả: Đỗ Kim
Thêm
08/05/2020
Lời
người dịch: Ngày 8 tháng 5 năm 2020 là ngày kỷ niệm 75 năm
ngày 8 tháng 5 năm 1945, Đức Quốc Xã đầu hàng Đồng Minh, Thế chiến Thứ hai chấm
dứt và châu Âu lật qua trang sử mới để tái thiết hậu chiến.
Ngày 8 tháng 5 năm 1985, nhân dịp kỷ niệm 40 năm,
Richard von Weizsäcker, Tổng thống Đức, đã đọc một bài diễn văn quan trọng tại
Quốc Hội với các chủ đề về tội ác, hận thù, ký ức, hòa giải và xây dựng.
Luận điểm chính của ông, ngày 8 tháng 5 là ngày giải
phóng, đánh dấu một sự sai lầm nghiêm trọng trong lịch sử, không phải để ăn mừng. Ông
kêu gọi tất cả phải can đảm nhìn vào sự thật lịch sử bằng một nhãn quan mới,
thành tâm tuởng niệm cho mọi người đã nằm xuống. Ông ca ngợi những nỗ lực tái
thiết hậu chiến của toàn dân và nêu cao vai trò đóng góp của nữ giới trong chiến
tranh và xây dựng. Ông nhắc đến những tấm gương về hòa giải dân tộc với những kẻ
cựu thù, nhưng kêu gọi thế hệ hậu chiến phải luôn tỉnh thức, không để bị lôi cuốn
vào những hận thù và cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau
trong tình hiếu hòa.
Richard Karl Freiherr von Weizsäcker (15.4.1920–
31.01.2015) làm Tổng Thống Đức trong hai nhiệm kỳ 1984–1994. Với tài năng lãnh
đạo, tinh thần trí thức dấn thân và đức độ liêm khiết, ông là một nhà chính trị
mẫu mực, được dân chúng và chính giới nể trọng.
Ngày 8 tháng 5 năm 2020 đánh dấu bài diễn văn này đã
được 35 năm mà ý nghĩa sâu xa vẫn còn được công luận Đức mang ra thảo luận.
Nước Đức thua trận trong hoang tàn và đổ nát, nhưng
sau 75 năm xây dựng, trở thành một quốc gia có nền công nghiệp tiên tiến, kinh
tế vững mạnh, luật pháp nghiêm minh và hệ thống an sinh xã hội vững chắc nhất tại
châu Âu. Dù trong bối cảnh dị biệt, nhưng Việt Nam có thể so sánh với kinh nghiệm
của Đức và các nước khác.
Sau năm 1975, Việt Nam thống nhất đã có một vận hội
mới để xây dựng dân chủ, phú cường và văn minh, nếu phe thắng cuộc thức thời biết
tận dụng các cơ sở vật chất còn nguyên vẹn và tiềm năng nhân lực dồi dảo của miền
Nam đúng mức và chuyển hướng đúng lúc.
Nhưng Việt Nam đến năm 2020? Chủ quyền dân tộc tự
quyết, tự do và bình đẳng cho người dân chỉ là lý thuyết; ngược lại, đại hoạ
ngoại thuộc, khó khăn kinh tế, nợ công tràn ngập, cạn kiệt môi sinh, suy đồi đạo
đức, khủng hoảng giáo dục, vi phạm nhân quyền và bất ổn xã hội là thực tế.
Khác với Đức, giới lãnh đạo Việt Nam thiếu can đảm
nhìn vào sự thật. Sau 45 năm xây dựng, trình độ về công nghiệp là tụt hậu, thua
Lào và Campuchia, kinh tế suy yếu thua Hàn Quốc, phát minh khoa học thua Thái
Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực. Tổ chức nhà nước sơ khai theo
chủ nghĩa tư bản thân tộc và xã hội thị trường hỗn loạn là nguyên nhân và tình
trạng bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội là hậu quả.
Trước thực trạng này, chính quyền xem dân chúng là
thế lực thù địch, chỉ còn biết dùng bạo lực trấn áp để bảo vệ chế độ, nên không
đủ nỗ lực đề phát huy đất nước.
Đã đến lúc giới lãnh đạo Việt Nam cũng nên bắt chước
Đức, nhìn các vấn đề tội ác, hận thù, hòa giải và xây dựng bằng một nhãn quan mới,
thành tâm tuởng niệm cho tất cả mọi người của hai miền nằm xuống, công khai thú
nhận những sai lầm trong quá khứ, tạ tội với thế hệ tiền nhân và tương lai,
là đã để lại một đất nuớc, dù thống nhất địa lý, nhưng thất bại trong chính
sách hòa giải, hòa hợp dân tộc.
Đất nước đang lâm nguy. Để chuyển hoá, tỉnh thức là
vấn đề kiến thức; xác định ý muốn thay đổi là vấn đề quyết tâm, không có phép lạ
nào của Mỹ hay Tàu ban phát để thay cho sức mạnh của toàn dân. Khi Đảng lãnh đạo
tạo bao vấn đề, thì nay quyền dân tộc tự quyết sẽ là phương tiện và đem lại giải
pháp.
***
Tổng thống Đức
Richard von Weizsäcker. Photo Courtesy
I
Bonn, 8. Mai 1985
Hôm nay là ngày mà nhiều
dân tộc hồi tưởng đến thế chiến thứ hai ở châu Âu kết thúc. Tùy theo từng định
mệnh mà mỗi dân tộc có những cảm xúc riêng trong ngày này. Chiến thắng hay thất
bại, giải phóng thoát khỏi bất công và ngoại trị hoặc chuyển tiếp sang một tình
trạng lệ thuộc mới, phân chia, liên minh mới, những xoay chuyển quyền lực bằng
bạo lực – ngày 8 tháng 5 năm 1945 là một ngày có một ý nghĩa lịch sử quan trọng
ở châu Âu.
Chúng ta, những người Đức,
đánh dấu ngày này là cho chúng ta, và điều này là cần thiết. Tự chúng ta phải
tìm ra các tiêu chuẩn riêng. Trân qúy những tình cảm của chúng ta bằng cách cuả
mình hoặc nhờ người khác sẽ không giúp được nhiều hơn. Chúng ta cần có sức mạnh
để nhìn thấy tốt nhất sự thật mà chúng ta có thể nhận ra truớc mắt, không cần
tô điểm hay thiên vị.
Đối với chúng ta, ngày 8
tháng 5 trước hết là một ngày tưởng nhớ về những gì mà mọi người đã phải chịu đựng.
Đó cũng là ngày để nghĩ lại quá trình lịch sử của chúng ta. Khi chúng ta càng
trung thực hơn để kỷ niệm ngày này, chúng ta càng thấy có tự do hơn để có trách
nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.
Đối với người Đức của
chúng ta, ngày 8 tháng 5 là ngày không phải là một ngày để ăn mừng. Những người
đã có kinh nghiệm sống trong ngày này với ý thức, họ nghĩ lại với tất cả những
kinh nghiệm cá nhân và vì thế mà các kinh nghiệm này rất khác nhau. Người này hồi
cư, kẻ khác thành vô gia cư. Người này đã được giải phóng, đối với người khác
đã bắt đầu chịu tù ngục. Nhiều người chỉ biết đơn giản là cám ơn vì những đêm đầy
bom đạn và lo âu đã qua đi, và họ đã thoát khỏi và còn sống sót. Những người
khác cảm thấy thương đau trong thất bại hòan toàn của quê cha đất tổ. Người Đức
cay đắng đứng trước những ảo ảnh tan nát, biết ơn những người Đức khác vì được
ban tặng một khởi đầu mới.
Thật là khó để mà tự định
hướng rõ ràng ngay. Bất trắc phủ đầy đất nước. Đầu hàng quân sự là vô điều kiện.
Số phận của chúng ta nằm trong tay của kẻ thù. Quá khứ là khủng khiếp, đặc biệt
là đối với nhiều người của những kẻ thù này. Bây giờ liệu họ có bỏ qua cho
chúng ta những gì mà chúng ta đã gây cho họ không?
Phần lớn người Đức đã tin
là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước và chịu đau khổ. Và bây giờ họ
nhận ra rằng: tất cả điều này là không chỉ vô ích và vô nghĩa, nhưng mà nó phục
vụ các mục tiêu vô nhân đạo của giới lãnh đạo mang trọng tội. Kiệt sức, bất lực
và nhiều lo âu mới thể hiện qua các cảm xúc của đa số. Liệu chúng ta sẽ còn tìm
thấy người thân của mình không? Liệu một cuộc tái thiết trong những hoang tàn
này thực sự có ý nghĩa gì không?
Nhìn lại họ thấy một vực
thẳm đen tối của quá khứ và nhìn hướng tới họ thấy một tương lai đen tối bất định.
Và rồi ngày lại ngày qua
cái nhìn đã rõ hơn, những gì mà đối với chúng ta hôm nay có thể nói tất cả cho
nhau là: Ngày 8 tháng 5 là một ngày giải phóng. Ngày này đã giải phóng cho tất
cả chúng ta thoát khỏi một hệ thống vô nhân đạo của chế độ cai trị độc tài Đức
Quớc Xã.
Không ai sẽ muốn quên đi
tình trạng giải phóng này, mà với ngày 8 tháng 5 chỉ mới bắt đầu làm đau khổ nặng
nề cho nhiều người và có những đau khổ còn theo sau. Nhưng trong khi chiến
tranh kết thúc chúng ta không nhìn thấy nguyên nhân của trốn chạy, trục xuất và
tình tr ạng mất tự do. Tình trạng này thực ra nằm ngay trong khởi điểm và bắt đầu
của một thời kỳ bạo quyền cai trị, mà nó đã dẫn đến chiến tranh. Chúng ta không
được phép tách rời ngày 8 tháng 5 năm 1945 với ngày 30 tháng giêng năm 1933.
Chúng ta thực sự không có
lý do để tham gia vào lễ kỷ niệm chiến thắng trong ngày hôm nay. Nhưng chúng ta
có mọi lý do để nhận ra ngày 8 tháng 5 năm 1945 như là ngày kết thúc của một
con đường sai lầm trong lịch sử của nước Đức, gieo mầm hy vọng cho một tương
lai tốt hơn.
II
Ngày 8 tháng 5 là một
ngày tưởng niệm. Tưởng niệm có nghĩa là nhớ lại một diễn biến một cách rất
trung thực và thuần khiết đến độ mà nó trở thành một phần trong tâm khảm của
chúng ta. Điều này đặt ra một đòi hỏi to tát về đức tính trung thực.
Hôm nay, chúng ta tưởng
niệm trong đau buồn với tất cả những người quá cố trong chiến tranh và bạo quyền
cai trị.
Chúng ta đặc biệt tưởng
nhớ tới sáu triệu người Do Thái đã bị tàn sát trong các trại tập trung của Đức.
Chúng ta tưởng nhớ đến tất
cả các dân tộc đã phải chịu đựng trong chiến tranh, đặc biệt không thể nào tả
xiết là nhiều công dân của Liên Xô và Ba Lan, những người đã thiệt mạng.
Là nguời Đức, chúng ta tưởng
niệm trong lễ tang này về những người đồng hương của mình đã bỏ mạng, họ từng
là những binh sĩ trong các trận không kích trên quê hương, những người bị giam
cầm và bị trục xuất.
Chúng ta tưởng niệm đến
những người thuộc sắc dân Sinti và Roma bị sát hại, người đồng tính bị giết, những
người mang bệnh tâm thần bị bức tử, những người đã phải chết vì niềm tin tôn
giáo hay chính trị của họ.
Chúng ta tưởng niệm đến
những con tin bị bắn chết.
Chúng ta nhớ những nạn
nhân của các phong trào kháng chiến ở trong tất các nước bị chúng ta chiếm
đóng.
Là người Đức, chúng ta
vinh danh những nạn nhân của cuộc kháng chiến của Đức, những công cuộc kháng
chiến dân quân, những công cuộc kháng chiến vì lý do tôn giáo, những công cuộc
kháng chiến của lực lượng công nhân và công đoàn, những công cuộc kháng chiến của
những người Cộng sản.
Chúng ta tưởng niệm tới
những người không tích cực đối kháng, nhưng họ chấp nhận cái chết thay vì phải
chịu phủ phục lương tâm.
Bên cạnh nhóm người quá
vãng không đếm hết, có những nổi đau khổ của con người chất cao như núi, đau khổ
cho người chết, đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải
chịu biện pháp cưỡng chế triệt sản vô nhân đạo, đau khổ trong những đêm đầy bom
rơi, đau khổ vì trốn chạy và trục xuất, vì bị cưỡng hiếp và cướp bóc, vì cưỡng
bức lao động, vì bất công và tra tấn, đói khổ, đau khổ vì lo sợ bị giam cầm và
chết chóc, đau khổ vì sự mất mát về tất cả những gì mà người ta lầm lạc tin tưởng
và chiến đấu cho niềm tin ấy.
Hôm nay chúng ta cùng tưởng
niệm về sự đau khổ của con người này trong một nỗi buồn.
Có lẽ phần lớn nhất những
gì đè nặng lên con người thì nữ giới của các dân tộc phải gánh chịu.
Lịch sử của thế giới để
quên quá dễ dàng nổi đau khổ, sự từ bỏ và sức mạnh âm thầm của họ. Họ đã lo sợ
và chiến đấu, mang nặng và bảo vệ cuộc sống của con người. Họ thương tiếc về
các người cha và con, chồng, anh em và bạn bè đã nằm xuống.
Trong những năm đen tối
nhất họ đã giử gìn ánh sáng của nhân tính trước những xóa nhòa.
Vào lúc chiến tranh kết
thúc, và khi không có triển vọng về một tương lai chắc chắn, họ là những người
đầu tiên đặt những viên đá xây dựng, đó là những phụ nữ trong hoang tàn ở
Berlin và ở khắp mọi nơi.
Khi những người đàn ông sống
sót hồi cư, nữ giới thường đứng kề vai sát cánh bên cạnh họ. Vì chiến tranh mà
có nhiều phụ nữ bị bỏ rơi và sống cả đời trong cô đơn.
Nhưng nếu khi các dân tộc
đã không xoá tan trong tâm khảm về các tàn phá, hủy diệt, tàn ác và vô nhân đạo,
khi các dân tộc sau chiến tranh từ từ xích lại gần nhau, thì đầu tiên chúng ta
mang ơn nữ giới của chúng ta.
III
Vào lúc khởi đầu thống trị
của bạo quyền, Hitler đã thú nhận là có sự căm ghét tột cùng chống lại những
người Do Thái của chúng ta. Trước công chúng, Hitler không bao giờ che dấu cảm
tưởng này, nhưng ông dùng toàn dân làm thành một công cụ cho hận thù này. Vào
ngày trước khi qua đời vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, ông còn làm xong một cái gọi
di chúc với lời lẽ: “Trên hết, tôi chịu trách nhiệm lãnh đạo đất nước và theo
đuổi việc tuân thủ nghiêm minh về Luật Chủng tộc và chống đối không thương tiếc
với những kẻ đầu độc tất cả các dân tộc, đó là Do Thái giáo quốc tế”
Chắc chắn một điều là hầu
như không có một quốc gia nào trong lịch sử luôn được tự do thoát ra khỏi được
những ràng buộc đầy tội lỗi trong chiến tranh và bạo lực. Tuy nhiên, các tội ác
diệt chủng của người Do Thái là chưa từng có trong lịch sử.
Việc vi phạm các trọng tội
nằm trong tay một thiểu số. Trước mắt của công chúng, việc này đã được che dấu.
Nhưng mỗi người Đức đã có thể cùng chứng kiến những gì người dân Do Thái đã phải
chịu đựng, từ về một tinh thần thờ ơ, không khoan dung còn che đậy cho đến một
cảm giác hận thù công khai.
Ai vẫn còn tin được sau
các vụ đốt cháy các thánh đường Do thái giáo, các vụ cướp của, sỉ nhục với các
dấu hiệu thuộc về Do thái, truất các quyền luật định, liên tục xúc phạm về phẩm
giá con người?
Ai mở mắt xem và lóng tai
nghe, ai muốn tự tìm hiểu, thì không thể không thấy rằng các chuyến tàu chờ người
trục xuất lăn bánh. Trí tưởng tượng của con người về các loại và mức độ của sự
diệt chủng không thể nào đủ. Nhưng trong thực tế đối với các tội phạm này đã
làm nhiều người, ngay cả trong thế hệ của tôi, những người còn trẻ và không
tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện các biến cố, chúng ta cố không nhận
thức những gì đã xãy ra.
Có rất nhiều hình thức
làm phân tán lương tâm, để không chịu trách nhiệm và ngoảnh mặt, câm lặng. Lúc
cuộc chiến kết thúc thì tất cả sự thật chưa được kể về việc thảm sát người Do
Thái lộ ra, có quá nhiều người trong chúng ta dựa vào những gì đã mình không biết
hoặc thậm chí chỉ phỏng đoán.
Có tội hay vô tội cho cả
một dân tộc là chuyện không có. Có tội hay vô tội, không thể quy kết cho tập thể,
nhưng là cá nhân.
Có những tội lỗi của con
người được phát hiện và có những tội lỗi còn tiềm ẩn. Có những tội lỗi mà người
ta đã thừa nhận hoặc phủ nhận. Bất cứ ai đã sống trải qua thời gian này với đầy
đủ ý thức, ngày hôm nay tự hỏi trong im lặng về sự ràng buộc của mình.
Vào thời gian đó, phần lớn
dân chúng ngày nay hoặc là còn ở trong tuổi thiếu niên hoặc thậm chí còn chưa
được sinh ra. Họ không thể nhận tội cho các hành vi mà họ đã không gây ra.
Không có con người nhạy cảm
nào kỳ vọng rằng họ phải ăn năn, chỉ vì họ là người Đức. Nhưng các bậc tiền
nhân của họ đã để lại cho họ một di sản nặng nề.
Tất cả chúng ta, cho dù
có tội hay không, dù già hay trẻ, phải chấp nhận quá khứ. Tất cả chúng ta đều bị
ảnh hưởng bởi hậu quả và nhận trách nhiệm cho các hậu quả này.
Các lớp già và trẻ phải
và có thể giúp đỡ lẫn nhau để hiểu được lý do tại sao làm tỉnh thức ký ức là cực
kỳ quan trọng.
Không phải là chuyện giải
quyết các tồn đọng của quá khứ. Việc này người ta không thể làm được. Quá khứ
không có thể được thay đổi sau khi xãy ra hoặc làm cho quá khứ không xãy ra.
Nhưng ai nhắm mắt trước quá khứ, họ sẽ mù về hiện tại. Ai mà không muốn nhớ những
chuyện vô nhân đạo, họ sẽ bị ảnh hưởng việc lây các nguy cơ mới.
Dân tộc Do Thái hồi tưởng
và sẽ luôn hồi tưởng. Là con người chúng ta tìm kiếm hòa giải.
Chính vì thế mà chúng ta
phải hiểu rằng không thể có sự hòa giải xãy ra mà không có hồi tưởng. Kinh nghiệm
của hàng triệu cái chết là một phần trong tâm khảm của mỗi người Do Thái trên
thế giới, không phải bởi chính vì thế, mà vì mọi người không thể quên một nỗi
kinh hòang như vậy. Nhưng hồi tưởng thuộc về một phần trong trong đức tin của
Do Thái giáo.
“Muốn quên đi làm cho kéo
dài đời sống lưu vong, và bí ẩn của cứu rổi chính là tưởng niệm.”
Câu nói đầy khôn ngoan của
Do Thái giáo thường được trích dẫn này muốn nói là đức tin nơi Thiên Chúa là niềm
tin vào tác động của Ngài trong lịch sử.
Tưởng niệm là kinh nghiệm
từ các tác động của Thiên Chúa trong lịch sử. Ký ức là nguồn gốc của niềm tin
vào sự cứu rỗi. Kinh nghiệm này tạo ra niềm hy vọng, kinh nghiệm này tạo ra một
niềm tin vào nơi cứu rỗi, tạo ra một cuộc tái ngộ của những người bị ngăn cách,
tạo nên việc hòa giải. Ai quên tưởng niệm, người ấy sẽ mất niềm tin.
Về phần chúng ta, nếu
chúng ta muốn quên đi những gì đã xảy ra, thay vì chúng ta phải nhớ lại, điều
này sẽ không chỉ là vô nhân đạo. Nhưng như thế, chúng ta sẽ vi phạm đến đức tin
của người Do Thái còn sống sót, và chúng ta sẽ phá hủy các phương cách hòa giải.
Đối với chúng ta, các đền
tưởng niệm và cảm giác từ nội tâm của chúng ta là quan trọng.
IV
Ngày 8 tháng 5 là một vết
rạch hằn sâu trong lịch sử, không chỉ riêng trong lịch sử Đức, mà cũng còn
trong cả châu Âu.
Nội chiến châu Âu kết
thúc, đưa thế giới cũ của châu Âu đến tan hoang. “Châu Âu đã chiến đấu tới
lúc cạn kiệt” (lời của sử gia M. Stürmer). Cuộc gặp gỡ của những người lính
Nga và Mỹ trên sông Elbe đã trở thành một biểu tượng cho sự chấm dứt tạm thời của
một kỷ nguyên châu Âu.
Chắc chắn một đều là tất
cả mọi thứ đều có nguồn gốc lịch sử xa xưa của nó. Những người châu Âu, họ có ảnh
hưởng lớn lao nhất định trong thế giới, nhưng trong việc tổ chức sự chung sống
trên lục địa của họ, họ có thể luôn làm tệ hại hơn. Khoảng hơn một trăm năm,
châu Âu đã phải chịu đựng xung đột của việc nhạy cảm thái quá về chủ nghĩa dân
tộc. Vào cuối thế chiến thứ nhất đã có nhiều hòa ước ra đời. Nhưng các hòa ước
này đã không hiệu lực trong việc mang lại hòa bình. Một lần nữa tinh thần cuồng
nhiệt theo chủ nghĩa dân tộc đã bùng lên và đã gắn liền với bao tai biến xã hội.
Trên đường dẫn đến tình
trạng bất trị Hitler là động lực thúc đẩy. Ông đã tạo và sử dụng sự hoang tưởng
của đại chúng. Một nền dân chủ yếu kém đã không thể ngăn chặn ông ta. Và các cường
quốc Tây Âu, theo sự đánh giá của Churchill “ngây thơ, không phải là vô tội”,
qua sự yếu đuối đã đóng góp cho sự phát triển một tình trạng tang tóc này. Sau
thế chiến thứ nhất Hoa Kỳ lại lo cố thủ và và không ảnh hưởng đến châu Âu trong
30 năm.
Hitler muốn thống trị
châu Âu và bằng chiến tranh. Ông đã tìm cơ hội này và thấy được ở Ba Lan.
Ngày 23 tháng 5 năm 1939
– một vài tháng trước khi chiến tranh bùng nổ – ông nói với các tướng Đức: “Khi
không có đỗ máu thì các thành công tiếp nối không thể đạt được… Danzig không phải
là mục tiêu đặt ra. Đối với chúng ta, vấn đề là mở rộng không gian sinh hoạt ở
phía Đông và đảm bảo nguồn cung ứng thực phẩm … Cho nên không có vấn đề để cho
Ba Lan được yên thân, và chuyện còn phải quyết định là tấn công Ba Lan lúc có
các cơ hội thích hợp đầu tiên … Trong vấn đề này có quyền hay không có quyền hoặc
có hòa ước hay không, đó là chuyện không thành vấn đề.”
Ngày 23 tháng 8 năm 1939,
các thoả ước bất tương xâm Đức – Nga đã được ký kết. Biên bản phụ thuộc bí mật
có quy định việc phân vùng trong thời gian sắp tới của Ba Lan.
Thỏa thuận này đã được ký
kết tạo điều kiện cho phép Hitler xâm lược Ba Lan. Đó là vấn đề mà giới lãnh đạo
trước đây của Liên Xô hòan toàn có ý thức. Tất cả những người có đầu óc suy nghĩ
về chính trị trong mọi thời gian thấy được rõ là hiệp ước Đức – Nga có nghĩa là
đồng ý để Hitler tấn công Ba Lan và do đó cũng có nghĩa là thế chiến thứ hai.
Như vậy, tội của Đức
không nhỏ trong sự bùng nổ của thế chiến thứ hai. Liên Xô đã chấp nhận chiến
tranh cho các dân tộc khác để chia phần hưởng lợi. Nhưng các sáng kiến gây chiến
đến từ nước Đức, không phải là do Liên Xô.
Đó chính là Hitler, người
đã sử dụng bạo lực. Sự bùng nổ của thế chiến thứ hai vẫn còn ràng buộc đến tên
của nước Đức.
Trong cuộc chiến tranh
này của chế độ Đức Quốc xã đã tra tấn và làm nhục cho nhiều dân tộc.
Cuối cùng, chỉ có một dân
tộc còn sót lại bị tra tấn, bị đàn áp và bị lăng nhục: chính là dân tộc Đức của
mình. Hitler lại luôn tuyên bố: khi dân tộc Đức đã không đủ khả năng giành chiến
thắng này, thì họ chỉ có thể suy vong. Các dân tộc khác trước hết là nạn nhân của
một cuộc chiến tranh do nước Đức gây ra, trước khi chúng ta là nạn nhân chiến
tranh của chính mình.
Tiếp theo sau là sự phân
chia Đức thành các khu vực khác nhau do các cường quốc chiến thắng thoả thuận.
Trong khi đó, Liên Xô xâm lăng tất cả các nước Đông và Đông nam châu Âu, vốn đã
bị chiếm đóng bởi Đức trong chiến tranh. Với ngoại lệ của Hy Lạp, tất cả các nước
này đều nước đi theo xã hội chủ nghĩa.
Việc phân chia châu Âu
thành hai hệ thống chính trị khác nhau đã bắt đầu. Đầu tiên, đó là tình trạng
phát triển hậu chiến, mà sau đó được củng cố. Nhưng nếu không có chiến tranh do
Hitler khởi đầu, tình hình sẽ không có xãy ra. Các dân tộc nạn nhân nghĩ tới đầu
tiên là khi họ nhớ đến chiến tranh do giới lãnh đạo của Đức gây ra. Nhìn về sự
chia cắt của đất nước của chúng ta và sự mất mát của nhiều lãnh thổ Đức, chúng
ta cũng nghĩ về vấn đề này. Trong bài giảng nhân ngày 8 tháng 5, Đức Hồng Y
Meissner có nói ở Đông Berlin: “Các kết quả thảm hại của tội lỗi luôn là sự
ngăn cách.”
V
Hủy diệt một cách độc
đoán gây ảnh hưởng lâu dài tới việc tự quyền phân bổ các gánh nặng. Có những
người dân vô tội đã bị truy bức, và những kẻ phạm tội lại trốn thoát. Người này
có may mắn để có thể xây dựng một cuộc sống mới nơi quê nhà trong một môi trường
quen thuộc. Người khác đã bị trục xuất khỏi cội nguồn quê hương.
Về sau khi Cộng hòa Liên
bang Đức thành hình, chúng ta có được một cơ hội quý giá sống trong sự tự do.
Nhiều triệu đồng bào chưa có được cơ hội này cho đến ngày nay.
Học cách phải chịu đựng sự
khắc nghiệt do số phận an bài khác nhau, đó là nhiệm vụ đầu tiên thuộc về tinh
thần, được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ tái thiết về vật chất. Trong việc xây dựng
này, đó là một thử thách sức người để nhận ra những gánh nặng của người khác,
xem họ có chịu đựng lâu dài không và có quên gánh nặng này không. Trong sự chịu
đựng này, khả năng mang lại hòa bình và sẵn lòng hòa giải phải nảy sinh từ
trong nội tâm và ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà người khác đòi hỏi nơi
chúng ta, nhưng là chúng ta đòi hỏi nơi chính mình nhiều nhất.
Chúng ta không thể tưởng
niệm ngày 8 tháng 5 mà không tự ý thức phải khắc phục để sẳn lòng hòa giải với
những đòi hỏi của những kẻ cựu thù. Liệu chúng ta có thể thực sự tự đặt mình
trong hòan cảnh của các thân nhân của các nạn nhân trong những trại tập trung tại
Warsaw hoặc cuộc thảm sát tại Lidice đựọc không?
Thật là khó khăn cho những
người dân ở Rotterdam hay London để họ hỗ trợ việc tái thiết đất nước của chúng
ta, khi mà các quả bom rơi xuống thành phố của họ trong một thời gian ngắn trước
đây thuộc về chúng ta! Để làm được như vậy, khi với thời gian dài họ có được niềm
tin là người Đức không cố dùng bạo lực thêm một lần nửa để sửa sai sự bại trận.
Ngay cả đối với chúng ta,
việc hy sinh lớn lao nhất là đòi hỏi những người bị trục xuất khỏi quê hương.
Sau ngày 8 tháng 5 họ chịu đựng bao đau khổ cay đắng và bất công nghiêm trọng.
Để đáp ứng với số phận khắc nghiệt của họ với lòng cảm thông, người dân địa
phương thường thiếu trí tưởng tượng và trái tim rộng mở.
Nhưng không bao lâu sau
cũng đã có một dấu hiệu rõ rệt về sự sẳn lòng trợ giúp. Nhiều triệu người tị nạn
và những người bị trục xuất được tiếp nhận. Trong những năm qua, họ có thể xây
được gốc rể mới. Bằng nhiều phương cách văn hóa và tình yêu quê hương, con cháu
của họ gắn bó được với của tổ tiên. Điều này là chuyện tốt đẹp, bởi vì đó là một
kho báu quý giá trong cuộc sống của họ.
Nhưng họ đã tự tìm thấy một
quê hương mới nơi mà họ lớn lên với những người dân địa phương cùng trang lứa,
cùng nói một thứ tiếng địa phương và chia sẻ cùng những phong tục. Cuộc sống trẻ
trung của họ là một minh chứng cho khả năng có được một sự bình an tâm hồn. Các
bậc ông cha của họ đã từng bị tống xuất, nhưng bây giờ họ sống trong quê hương.
Những người bị trục xuất
khỏi quê hương ý thức rất sớm và chứng tỏ mẫu mực cho việc từ bỏ bạo lực. Đây
không phải là một tuyên bố thoáng qua ở giai đoạn ban đầu của tình trạng bất lực,
nhưng là một lời cam kết mà vẫn giữ được giá trị của nó. Bất bạo động có nghĩa
là làm cho niềm tin trong mọi phe phái được nẩy nở, ngay cả cho một nước Đức dù
vừa mới hồi sức vẫn ràng buộc.
Với thời gian, quê hương
riêng tư nay trở thành quê hương chung cho nhiều người khác. Trên nhiều nghĩa
trang cũ ở phía Đông đã có nhiều mộ phần cho người Ba Lan hơn người Đức.
Hàng triệu người Đức buộc
phải trôi dạt về phiá Tây, tiếp theo sau là đến hằng triệu người Ba Lan rồi đến
lượt hàng triệu người Nga. Họ là tất cả những người mà không được ai hỏi han,
những người đã phải chịu đựng bất công, những người là đối tượng không thể tự vệ
của những biến cố chính trị, họ không được đền bù cho các bất công và không đặt
ra các yêu sách đòi bồi thường thiệt hại về những gì đã gây cho với họ.
Hiện nay, bất bạo động có
nghĩa là những người dân bị định mệnh xô đẩy sau ngày 8 tháng 5 đến một nơi mà
họ đã sống từ hơn mười năm nay và ở đó họ có một sự yên ổn lâu dài, không lo về
chính trị đối với tương lai của họ. Điều này có nghĩa là các nguyên tắc cảm
thông được đặt cao hơn các yêu sách pháp lý gây tranh cải.
Trong đó có sự đóng góp
chủ yếu của con người cho một trật tự hòa bình trong châu Âu, một trật tự có thể
bắt nguồn do chúng ta.
Sau năm 1945, một khởi đầu
mới ở châu Âu mang lại những ý tưởng về tự do và tự quyết, chiến thắng và thất
bại. Đối với chúng ta, ý nghĩ này có nghĩa là sử dụng cơ hội để kết thúc một
khoảng thời gian dài của lịch sử châu Âu, nó có nghĩa là đối với từng quốc gia,
hòa bình dường như là một tình trạng có thể nghĩ ra được, an toàn là kết quả của
tính ưu việt của chính quốc gia mình và trong thời hòa bình là thời gian chuẩn
bị cho cuộc chiến kế tiếp.
Những người dân châu Âu
yêu quê hương của họ. Đối với người Đức cũng không khác hơn. Ai có thể tin tưởng
vào sự hiếu hòa của một dân tộc lại có khả năng quên được quê hương mình?
Không, ngay trong tình
yêu hòa bình cho thấy là người ta không quên quê hương của mình và vì lý do đó
là quyết tâm làm mọi thứ có thể để luôn sống trong hòa bình với nhau. Lòng yêu
quê hương của một người biệt xứ không phải là họ có chủ trương phục hồi lãnh thổ.
VI
Cuộc chiến vừa qua đã
khơi động một ước vọng hòa bình trong lòng người mạnh hơn truớc đây. Các công
tác hòa giải của các nhà thờ có một âm hưởng sâu đậm. Đối với công tác đem lại
cảm thông trong giới trẻ có rất nhiều tấm gương. Tôi nghĩ về “Chiến dịch Hòa giải”
với hoạt động tại Auschwitz và Israel.
Một giáo xứ của thành phố
Kleve thuộc khu vực hạ lưu sông Rhein vừa nhận được phần thưởng xứng đáng của một
giáo xứ Ba Lan như một dấu hiệu của tinh thần hòa giải và cộng đồng. Giáo xứ đã
gửi một trong những quà tặng này cho một giáo viên đến Anh. Từ nước Anh vị giáo
viên này đã ra công khai và đã viết rằng khi xưa trong chiến tranh ông là người
ném bom phá hủy các nhà thờ và các nhà ở Kleve và mơ uớc một dấu hiệu của sự
hòa giải.
Việc tỏ lộ này giúp rất
nhiều cho hòa giải, là không cần phải chờ đợi nơi người khác tìm đến khi ông,
nhưng ông đến với họ, như ông đã làm được điều đó.
VII
Về hậu quả của chiến
tranh đã mang lại cho những kẻ cựu thù gần nhau trong quan điểm về con người
cũng như về chính trị. Ngay từ đầu năm 1946, trong bài phát biểu đáng suy ngẫm
tại Stuttgart về sự cảm thông ở châu Âu, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Byrne đã kêu gọi
giúp dân Đức trong quá trình chuyển đổi đến một tương lai tự do và hiếu hòa.
Khi xưa đã có vô số các
công dân Mỹ đã giúp chúng ta, những người Đức là kẻ bại trận chữa lành các vết
thương chiến tranh với các phương tiện tư nhân của họ.
Nhờ vào tầm nhìn xa của
người Pháp như Jean Monnet và Robert Schuman và người Đức như Konrad Adenauer,
một mối cựu thù giữa người Pháp và người Đức đã kết liểu vĩnh viễn.
Một nguồn năng lực mới về
ý chí xây dựng và năng lượng tuôn tràn cả nước. Một số mộ cũ đã được tân trang,
xung đột tôn giáo và căng thẳng xã hội mất đi độ căng thẳng. Chúng ta làm việc
trong tinh thần đối tác.
Không có “giờ phút tận
cùng”, nhưng chúng ta đã có cơ hội cho một khởi đầu mới. Chúng ta đã sử dụng cơ
hội một cách tốt đẹp như chúng ta có thể. Ở vị trí mất tự do, chúng ta đã thiết
lập tự do dân chủ.
Bốn năm sau khi chiến
tranh kết thúc, vào năm 1949, ngày 8 tháng 5, Hội đồng Nghị viện biểu quyết Hiến
pháp của chúng ta. Vượt qua các dị biệt của các chính đảng, các nhà dân chủ đã
có một câu trả lời đối vối chiến tranh và bạo quyền trong Điều 1 của Hiến pháp
của chúng ta:
“Do đó, những người dân Đức
thừa nhận nhân quyền bất khả xâm phạm và bất khả chuyển nhượng là một nền tảng
của tất cả các cộng đồng con người, cho hòa bình và công lý trên thế giới.”
Trong ý nghĩa của ngày 8
tháng 5, ý nghĩa của ngày này cũng để hồi tưởng hôm nay.
Cộng hòa Liên bang Đức đã
trở thành một nhà nước được tôn trọng trên toàn thế giới. Nước Đức thuộc về một
trong những nước công nghiệp phát triển cao của thế giới. Với sức mạnh kinh tế
của mình, nước Đức tự biết cùng chịu trách nhiệm về đấu tranh chống đói nghèo
trên thế giới và đóng góp cho bình đẳng xã hội giữa các dân tộc.
Từ bốn mươi năm nay chúng
ta đang sống trong hòa bình và tự do, và thông qua các chính sách của chúng ta,
chúng ta đã góp phần rất lớn trong những quốc gia tự do của Liên minh Đại Tây
Dương và Cộng đồng châu Âu.
Chưa bao giờ mà trên đất
Đức có một sự bảo vệ tốt hơn về các quyền tự do của công dân như hiện nay. Một
mạng xã hội dày đặc bảo vệ những nền tảng về cuộc sống của người dân mà không cần
phải sợ xấu hổ khi so sánh với bất kỳ xã hội nào khác.
Khi chiến tranh kết thúc,
nhiều người Đức vẫn cố gắng để che giấu hộ chiếu của mình hoặc trao đổi hộ chiếu
của mình cho người khác, nhưng hôm nay quốc tịch của chúng ta là một loại quyền
được nể trọng.
Thực sự chúng ta không có
lý do để kiêu ngạo và tự mãn. Nhưng chúng ta nhớ lại sự phát triển trong 40 năm
với lòng biết ơn, nếu chúng ta sử dụng ký ức lịch sử của chúng ta như một kim
chỉ nam cho hành động của chúng ta trong hiện tại và cho các nhiệm vụ chưa được
giải quyết đang chờ đợi chúng ta.
– Nếu chúng ta tưởng niệm
những người bị bệnh tâm thần chết trong Đế chế Đệ Tam, thì chúng ta sẽ hiểu được
sự tận tâm đối với các công dân bị bệnh tâm thần như là bổn phận của chúng ta.
– Nếu chúng ta tưởng niệm
những người bị đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo và chính trị, những người
đang bị đe dọa với cái chết nhất định, họ thường đứng trước các ranh giới bị
khép kín của các nước khác, chúng ta sẽ không khóa lại cánh cửa trước những người
hiện nay đang thực sự bị truy nã và tìm đến với chúng ta để xin bảo vệ.
– Nếu chúng ta nhận định
lại các cuộc đàn áp về tinh thần tự do trong chế độ độc tài, chúng ta sẽ bảo vệ
quyền tự do về mỗi suy nghĩ và mọi lời phê phán, dù các hình thức này cũng có
thể chống lại chúng ta.
– Ai phê phán về tình
hình ở Cận Đông, người đó có thể nghĩ đến các số phận những người Do Thái mà
người Đức đã gây ra và việc thành lập nước Israel trong những điều kiện mà người
dân trong khu vực này ngày nay còn chịu gánh nặng và nguy hiểm.
– Nếu chúng ta suy nghĩ về
những gì mà các lân quốc phiá Đông của chúng ta đã phải chịu đựng trong cuộc
chiến tranh, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn rằng tình trạng quân bình, giãm bớt xung đột
và tình lân quốc hiếu hòa vẫn còn là các nhiệm vụ chính yếu trong chính sách đối
ngoại của Đức. Điều này cũng có nghĩa là cả hai phiá cùng tưởng niệm và tôn trọng
lẫn nhau. Cả hai có được mọi đủ lý do về mặt nhân tính, văn hoá và cuối cùng
còn về mặt lịch sử.
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Liên Xô Mikhail Gorbachev đã tuyên bố là trong lễ kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết
thúc giới lãnh đạo của Liên Xô không nên khuấy động các cảm xúc chống Đức. Liên
Xô tham gia trong tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Ngay cả khi khi chúng ta
có những nghi ngờ về những đóng góp của Liên Xô trong sự cảm thông giữa Đông và
Tây và tinh thần tôn trọng nhân quyền ở tất cả các nơi trong châu Âu, chúng ta
không nên bỏ qua dấu hiệu này từ Moscow. Chúng ta muốn có tình thân hữu với các
dân tộc của Liên Xô.
VIII
Bốn mươi năm sau khi kết
thúc chiến tranh, dân tộc Đức trước cũng như sau còn bị phân chia.
Trong một buổi thánh lễ
tưởng niệm tại nhà thờ Kreuzkirche ở Dresden vào tháng 2 năm nay, Đức Giám mục
Hempel có tuyên bố: “Đó là một gánh nặng, một tổn thương khi hai nước Đức đã
thành hình với một lằn ranh khắc nghiệt. Quá nhiều ngăn cách là một gánh nặng tổn
thương. Nó tạo thêm vũ khí“.
Gần đây, ở Baltimore, Hoa
Kỳ, có mở ra cuộc triển lãm về “Người Do Thái ở Đức”. Các vị đại sứ của cả hai
nước Đức đã nhận lời mời tham dự. Người mời là Viện trưởng Viện Đại học Johns
Hopkins, ông đã chào đón họ. Ông chỉ ra rằng tất cả người Đức đang cùng đứng
chung trên một nền tảng phát triển lịch sử. Một quá khứ chung liên kết họ với
nhau, với một sợi dây. Một sợi dây như vậy có thể là một niềm vui hay một vấn đề
– nó luôn luôn là một nguồn hy vọng.
Chúng ta là người Đức và
là một quốc gia. Chúng ta cảm thấy thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống qua
cùng một lịch sử.
Ngoài ra, cũng ngày 8
tháng 5 năm 1945, chúng ta đã sống với nhau như là một số phận chung của dân tộc
chúng ta, nó làm liên kết chúng ta. Chúng ta cảm thấy thuộc về nhau trong ước
muốn hòa bình. Từ đất Đức của hai quốc gia sẽ hòa bình và tình lân quốc tốt đẹp
với tất cả các quốc gia khác phải khởi động. Những quốc gia khác cũng không nên
tạo ra một mối đe dọa cho hòa bình cho nước Đức.
Người dân ở nước Đức muốn
làm việc cùng tất cả các dân tộc trong hòa bình, công lý và nhân quyền, mà
trong đó cũng cho dân tộc chúng ta.
Tự hòa giải vượt qua những
biên giới, không phải cho một châu Âu có tường bao quanh, nhưng mà là một lục địa
loại bỏ các yếu tố phân cách do biên giới. Chính vì việc này cảnh báo chúng ta
về sự kết thúc của thế chiến thứ hai.
Chúng ta lạc quan cho rằng
ngày 8 tháng 5 không còn là một ngày cuối cùng trong lịch sử của chúng ta, mà
nó làm ràng buộc đối với tất cả người Đức.
IX
Trong những tháng vừa qua
một số thanh niên đã tự hỏi và hỏi chúng ta là tại sao bốn mươi năm sau khi chiến
tranh kết thúc lại có các cuộc tranh luận rất sôi nổi về quá khứ. Tại sao nó lại
sống động hơn sau khi hai mươi lăm hay ba mươi năm? Sự tất yếu nội tại cho cuộc
tranh luận là gì?
Trả lời cho các câu hỏi
như vậy là không dễ. Nhưng chúng ta không nên tìm kiếm những lý do cho điều
này, mà đặc biệt nhất là trong các ảnh hưởng ngoại tại, mặc dù hiển nhiên các
lý do này cũng đã có xãy ra.
Bốn mươi năm đóng một vai
trò quan trọng trong khoảng thời gian trong cuộc sống của con người và số phận
của dân tộc.
Một lần nữa, xin qúy vị
cho phép tôi được nhìn vào Kinh Cựu Ước, mà đã giử được một sự hiểu biết sâu xa
đối với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Theo Thánh kinh thì bốn mươi
năm đóng một vai trò thiết yếu thường xuyên theo định kỳ.
Bốn mươi năm Israel vẫn
còn phải sống trong sa mạc, trước khi một chương mới trong lịch sử bắt đầu với
việc trở về vùng đất hứa.
Bốn mươi năm là cần thiết
cho một sự thay đổi hòan toàn của một thế hệ của cha ông có trách nhiệm
Nhưng ở những đoạn khác,
(trong sách Thẩm phán) có ghi thường thì ký ức kéo dài chỉ trong bốn mươi năm để
giúp kinh nghiệm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì còn lại cũng kết liễu.
Vì vậy, bốn mươi năm luôn
luôn có nghĩa là một dấu vết lớn. Nó ảnh hưởng đến ý thức của con người, xem
như là sự kết thúc của một thời kỳ đen tối với niềm tin về một tương lai mới tốt
đẹp, hoậc xem như là một mối nguy hiểm của việc quên lãng và như một lời cảnh
báo trước những hậu quả này. Hồi tưởng cả hai là vấn đề nên làm.
Đối với chúng ta, một thế
hệ mới trong tinh thần trách nhiệm chính trị đang trương thành. Giới trẻ không
chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra. Nhưng họ có trách nhiệm đối với những
gì bắt nguồn từ lịch sử sẽ trở thành.
Chúng ta, thế hệ cha ông,
không nợ các giới trẻ việc thực hiện các ước mơ, nhưng về sự chân thành. Chúng
ta cần giúp cho giới trẻ hiểu được lý do tại sao làm tỉnh thức các hồi ức là điều
quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta muốn giúp họ tự nghiêm túc lấy với sự thật
của lịch sử và không cho phép thiên vị, không trốn chạy trong lý thuyết giải
phóng không tưởng, nhưng cũng không nh ân danh đạo đức qu á mức.
Chúng ta học hỏi trong lịch
sử của mình là con người có khả năng cho mục đích gì. Vì vậy, chúng ta không
nên tự tưởng tượng rằng chúng ta hiện nay là những con người khác và trở thành
tốt hơn.
Không có sự hòan thiện đạo
đức nào thành tựu chung cuộc – cho một ai và cho một nước nào! Như là con người,
chúng ta đã học hỏi. Như là con người, chúng ta vẫn c òn nguy hiểm. Nhưng chúng
ta có sức mạnh để luôn vượt qua mối đe dọa mới.
Hitler đã luôn luôn tìm
cách để khuấy động các thành kiến, đối nghịch, và hận thù.
Lời yêu cầu dành cho cho
các bạn trẻ là: Các bạn đừng để lôi kéo vào tinh thần đối nghịch và hận thù chống
lại những người khác, chống lại người Nga hay người Mỹ, chống lại người Do Thái
hay người Thổ, chống lại người cải cách hoặc bảo thủ, chống lại người da đen hoặc
da trắng.
Chúng ta hãy học cách sống
chung với nhau, không chống lại nhau.
Các bạn hãy để cho chúng
tôi, các chính trị gia được bầu một cách dân chủ, luôn lưu tâm hơn nữa trong vấn
đề này và tạo ra một mẫu mực.
Chúng ta vinh danh sự tự
do. Chúng ta làm việc vì hòa bình. Chúng ta tuân thủ pháp luật. Chúng ta phục vụ
theo những chuẩn mực nội tại cho công lý. Chúng ta hãy nhìn vào ngày 8 tháng 5
hôm nay bằng chân lý trong ánh mắt với một cách tốt nhất mà chúng ta có thể
nhìn chân lý này.
No comments:
Post a Comment