05/05/2020
Giám đốc thẩm là thủ tục
tố tụng đặc biệt, nhằm xem xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án.
Giám đốc thẩm không xem
xét lại sự thật khách quan của vụ án. Nó chỉ xem xét xem cơ quan tiến hành tố tụng
có sai sót trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hay không.
Kết luận của phiên tòa
giám đốc thẩm vì vậy có thể tồn tại dưới nhiều dạng: (1) giữ nguyên bản án có
hiệu lực và bác kháng nghị; (2) hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực để điều
tra lại; (3) hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực để xét xử lại ở cấp sơ thẩm;
(4) hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực và đình chỉ vụ án; (5) trực tiếp sửa
bản án đã có hiệu lực pháp luật; và (6) đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.
Vụ án Hồ Duy Hải đang đi đến thủ tục tư pháp này.
Tử tù Hồ Duy Hải. Ảnh:
Gia đình cung cấp/Amnesty
***
Hồ Duy Hải bị bắt vào tháng Ba năm 2008.
Tháng 12 năm 2008, Tòa án
Nhân dân (TAND) tỉnh Long An tuyên anh án tử hình.
Tháng Tư năm 2009, Tòa
phúc thẩm TAND Tối cao tại TP. Hồ Chí Minh bác đơn kháng cáo của Hải, giữ
nguyên hình phạt tử hình.
Hai lần nhận án tử hình,
bị cáo Hồ Duy Hải đã đi trên dây giữa sự sống và cái chết được hơn 11
năm.
Một phần đời người. Và cả
đời tuổi trẻ của một thanh niên.
Chúng ta đang đi đến những
quãng cuối cùng của sự chờ đợi thống khổ ấy, với phiên tòa giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán – Tòa án Nhân dân Tối cao, cấp xét xử cao nhất mà Hải có thể đi
tới.
Ta sẽ phải
đối mặt với phán quyết này như thế nào? Ta sẽ phải lựa chọn thái độ ra sao?
***
Người ta thường hay nói về
tính chính danh trong xã hội hiện đại, nhưng ít ai định nghĩa chính danh là
gì.
Chính danh chính trị
(political legitimacy) thường được giải quyết bằng câu hỏi quyền lực nhà nước
có đại diện cho số đông và bảo vệ số đông người dân hay không. Song tính chính
danh tư pháp (judicial legitimacy) không có cái diễm phúc được hiểu thông qua
cách thức giản đơn như vậy.
Ở bất kỳ quốc gia nào, bản
chất của một tòa án là phi dân chủ. Họ không được nhân dân bầu ra, không có
trách nhiệm tuân thủ nguyện vọng của nhân dân, và không có trách nhiệm giải
trình về bản án của mình trước nhân dân. Tính chính danh của một tòa án, vì vậy,
thường được cho là đến từ quá trình xét xử: Tòa có độc lập
hay không? Tòa có thượng tôn pháp luật hay không?
Hiển nhiên, đây không phải
là cách duy nhất người ta nhìn nhận về tính chính danh của tòa. Trong quyển “Courts:
A Comparative And Political Analysis”, Giáo sư Martin Shapiro (Đại
học Harvard) phản đối việc chỉ dựa vào tiến trình tố tụng để lý giải cho sự cần
thiết của chế định tư pháp tòa án.
“Tòa cần phải được đánh
giá dựa trên bản án cuối cùng của nó” – ông nói. Theo cách tiếp cận này, phép thử dân chủ cho sự
chính danh của một tòa án nằm ở chỗ kết quả cuối cùng của
nó có hướng tới công lý, có nhằm bảo vệ và cải thiện đời sống con người hay
không. Nếu bản án không có đóng góp gì cho mục tiêu xây dựng xã hội tốt đẹp
hơn, việc bảo vệ thứ độc lập trừu tượng của hệ thống tư pháp cũng chẳng có ý
nghĩa gì.
Nhưng thế nào là xã hội tốt
đẹp hơn? Thế nào là công lý? Thật khó để tìm ra một điểm dung hòa cả hai luồng
ý kiến. Ngay cả những thẩm phán tài ba của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ cũng luôn
phải tự nhắc nhở mình về tính chính danh của cơ quan tư pháp quyền lực nhất
liên bang, vốn luôn được rất nhiều luật gia trên thế giới thần tượng.
Trong ghi chép phần tranh
luận (oral argument) tại Tối cao Pháp viện của án lệ nổi tiếng Gill
v. Whitford hồi năm 2016 liên quan đến việc Đảng Dân chủ tại
Wisconsin cáo buộc chính quyền tiểu bang do Đảng Cộng hòa cầm quyền cố tình đưa
ra các đạo luật để “thao túng vùng bầu cử” (partisan gerrymander), Chánh
thẩm John Robert đã phải cân
nhắc:
“Giả sử tin về việc Đảng Dân chủ thắng vụ kiện này đến
tai một người dân trên đường phố Wisconsin, họ sẽ nói gì? Nếu họ đủ bình tĩnh,
có thể họ sẽ hỏi vì sao Đảng Dân chủ thắng. Và câu trả lời của chúng ta, đối với
họ, đơn giản chỉ là những mớ thuật ngữ pháp lý xã hội vô nghĩa lý (sociological
gobbledygook).
Trong khi đó, đường phố rõ ràng cũng không có chỗ
cho sự lịch thiệp nói trên. Họ sẽ gọi chúng ta là đám vớ vẩn. Rằng Tối cao Pháp
viện đang ủng hộ Đảng Dân chủ và thù ghét Đảng Cộng hòa. Khi điều này xảy ra,
vai trò và sự chính trực của Tối cao Pháp viện đang bị đe dọa nghiêm trọng trước
con mắt quốc dân”.
Lo lắng của Chánh thẩm
John Robert được Giáo sư Luis Fuentes-Rohwe, trường Đại học Indiana Bloomington, nhìn
nhận dưới góc độ “sự trung thành chính thể”
(institutional loyalty).
Ông nhận định, người Mỹ
đã từng rất thần tượng hệ thống tòa án Hoa Kỳ. Sự tin tưởng đó không phải bởi kết
quả bản án, hay thậm chí là quá trình xét xử. Nó được xây dựng bởi lòng tin của
toàn bộ quốc gia đối với vai trò đọc, hiểu và giải thích pháp luật được chính
Hiến pháp trao cho Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
Công chúng có thể không
hài lòng với kết quả của một vụ án cụ thể. Nhưng họ không thách thức trí tuệ và
sự công minh của các thẩm phán. Đối với họ, các thẩm phán khác biệt hoàn toàn với
chính trị gia “tráo trở và gian dối”. Đây chính là mấu chốt khiến cho vị thế của
tòa án đặc biệt, khiến cho công chúng còn phải “ngước nhìn” các thẩm
phán.
Khi “sự trung thành với
chính thể” của một quốc gia không còn; đó là lúc các thẩm phán bị xem là những
tay chơi chính trị, đơn thuần “choàng áo thụng” để xử án.
Sự lo lắng của thẩm phán
Robert quả thật không thừa. Từ năm 2016, môi trường chính trị Hoa Kỳ đã hoàn
toàn thay đổi với sự thắng thế của Donald Trump. Với việc ông này cổ vũ phong
trào thách thức thể chế chính trị Hoa Kỳ, rồi kế đó là khủng hoảng phân cực tồi
tệ nhất Hoa Kỳ sau Nội chiến, niềm tin vào chính thể mà Hiến Pháp Hoa Kỳ đã xây
dựng, trong số đó có Tối cao Pháp viện, đang sụt giảm nghiêm trọng.
Người ủng hộ Trump gọi Thẩm
phán Ruth Bader Ginsburg là “con chó cái của Đảng Dân chủ” sau khi bà phê bình
cách nói chuyện của Trump.
Người ghét Trump gọi Thẩm
phán Brett Kavanaugh (do Trump bổ nhiệm) là một “thằng hiếp dâm” không hơn
không kém sau những cáo buộc dành cho ông này.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
đang phải đối mặt với khủng hoảng niềm tin chưa từng có tiền lệ.
***
Vậy người Việt Nam tin
vào điều gì?
Chúng ta có sở hữu “sự
trung thành chính thể” đối với Tòa án Việt Nam hay không?
Có thể tự tin mà nhận định
rằng người Việt Nam chưa bao giờ có một niềm tin “son sắt” dành cho hệ thống tư
pháp Việt Nam như người Mỹ dành cho hệ thống của họ.
Chúng ta chưa từng nhìn
thẩm phán như những con người vượt lên trên chính trị.
Làm sao những người dân
bình thường có thể làm điều đó, khi mà ngay cả Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án
còn khẳng định các cơ quan tư pháp là cánh tay thể chế, phải trung thành với
các loại tuyên ngôn chính trị từ cao xuống thấp?
Hay người Việt Nam có niềm
tin về quá trình và sự công tâm của tòa án Việt Nam hay không?
Vẫn là con số
không.
Trong nghiên cứu có
tên “Corruption
in Asia: Rethinking the Governance Paradigm” của Giáo sư Luật
Timothy Lindsey và Giáo sư Kinh tế – Sử Howard W. Dick thuộc Đại học Melbourne,
hai khoa học gia cho thấy người Việt không có mấy niềm tin vào hệ thống tư pháp
quốc gia. Theo họ, điều này không chỉ do tác động của thực trạng pháp luật quốc
gia, mà còn do đặc điểm lịch sử – văn hóa.
Từ việc đặt đạo đức lên
trên pháp luật của ngàn năm Khổng giáo, sự yếu kém đã thành bản chất của các cơ
chế tư pháp phong kiến, cho đến sự lộn xộn của nền chính trị thời chiến, người
dân kỳ vọng và tin tưởng hơn vào các công cụ cưỡng chế bạo lực của cơ quan hành
pháp, khi so sánh với “những tờ giấy vụn” do cơ quan tư pháp ban hành. Nghiên cứu
này được thực hiện vào tận đầu những năm 2000. Song giá trị phân tích của nó 20
năm sau tại Việt Nam vẫn còn đó.
Thực tế trên đẩy người Việt
Nam vào thế chỉ còn có thể chọn một niềm tin rất thực dụng khi nói đến các cơ
quan tư pháp – kết quả.
Miễn là kết quả đúng với
mong muốn hay nguyện vọng của mình, cơ quan tư pháp sẽ trở nên “công minh”,
“sáng suốt”. Nhưng nếu kết quả đi ngược lại điều này, tòa án đơn giản chỉ là
“con rối”, nơi tập hợp “những kẻ nhận hối lộ”. Cách tiếp cận này chỉ càng khiến
vai trò và niềm tin vào hệ thống tư pháp của Việt Nam sụt giảm.
***
Với vụ án của Hồ Duy Hải,
nhờ vào sự kiên cường của thân mẫu anh, nhờ vào sự nhiệt thành của các luật sư
tham gia, nhờ sự lên tiếng của báo chí, và quan trọng nhất là nhờ vào công luận
Việt Nam, chúng ta có lẽ đang được chứng kiến một quy trình tư pháp phần nào
công khai và sòng phẳng.
Một ngày trước ngày thi
hành án tử cho anh (4/12/2014), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gửi công văn cho
Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đề nghị
hoãn thi hành án tử hình để xem xét kỹ trước khi thi hành án, từ đó tạo thêm
nhiều thời gian cho quá trình xem xét lại thủ tục tố tụng trước đó.
Đại biểu Quốc hội Lê Thị
Nga cũng can đảm dấn thân vào vụ án, với báo cáo của bà ghi nhận bản án kết tội
Hồ Duy Hải “chưa đủ cơ sở vững chắc”, và “có đầyđ ủ căn cứ để giám đốc thẩm”
cũng như “cần phải xem xét, kháng nghị giám đốc thẩm vụ án này”.
Đến năm 2019, Viện KSND Tối
cao ra quyết
định kháng nghị giám đốc thẩm. Họ nhận định bản án sơ thẩm và phúc thẩm
tuyên tử hình Hồ Duy Hải là chưa phù hợp với tình tiết khách quan vụ án; việc
thu thập, đánh giá chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ; vụ án có nhiều nội dung cần
chứng minh nhưng chưa được làm rõ.
Có thể nói mọi thủ tục tư
pháp, mọi cân nhắc pháp luật đã được gần như mọi cơ quan có liên quan xem xét
và đánh giá.
Chúng ta không hề biết sự
thật. Và tôi tin là ngay cả các thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao cũng vậy.
Điều họ có thể làm là nhìn vào quy trình tố tụng và chứng cứ để đưa ra phán quyết
cuối cùng.
Với những chứng cứ rất rõ
ràng, tôi tin vụ án Hồ Duy Hải ít nhất cũng sẽ được trả hồ sơ để xét xử lại, nếu
không nói là phải trả hồ sơ để điều tra lại từ đầu.
Song với những đặc trưng
khó có thể chối bỏ nói trên của nền tư pháp Việt Nam, không khỏi bùi ngùi khi
nghĩ rằng bản án sẽ không thể nào làm thay đổi cách nhìn của người dân đối với
hệ thống tư pháp, và lại càng không thể làm thay đổi chính bản chất thật sự của
hệ thống.
Dù phán quyết chung thẩm
có là gì đi chăng nữa, những vấn đề cốt lõi gây ra án oan của hệ thống tư pháp
Việt Nam vẫn còn nguyên đó.
Trả lại sự trong sạch cho
Hồ Duy Hải theo đúng như những gì hồ sơ thể hiện là cần thiết, là việc phải
làm. Nhưng công lý vẫn chưa chiến thắng, khi người Việt Nam ta còn chưa định
hình được công lý là gì.
Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài
bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.
No comments:
Post a Comment