Posted
on 09/07/2018
Nếu
tin tức giả (fake news) trở thành một hiện tượng sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ
gần đây nhất vào năm 2016, thì tin không chính thống, tin tức của “đài địch” đã
được xem là một nguồn tin không được phép tin cậy tại Việt Nam
trong vòng trên dưới 70 năm nay.
Tuy
nhiên, trong tháng Sáu 2018, khi các làn sóng biểu tình trên cả nước có dấu
hiệu lan rộng mạnh mẽ, phe ủng hộ chính phủ bắt đầu sử dụng tin tức giả như một
công cụ tuyên truyền đặc biệt và rất có hiệu quả.
Ví
dụ, tin tức hoàn toàn bịa đặt về vụ việc hai cảnh sát cơ động bị người biểu
tình ném bom xăng đến chết, và thông tin công ty Pouyuen sa thải 4.000 công
nhân Việt Nam, được lan truyền với tốc độ chóng mặt.
Vì
vậy, dù cộng đồng mạng nhiều lần lên tiếng giải mã đó là các tin không xác thực
được các trang không chính thống đưa ra nhưng tác động tiêu cực mà những tin
giả này gây ra đối với phong trào biểu tình là chuyện đã rồi.
Điều
này cho thấy việc sử dụng thông tin, tin tức giả tại Việt Nam không thể mặc
định là dính liền với những kênh thông tin đối lập.
Vậy
nên, nếu trong một chương trình thời sự nào đó, khi nghe các phát thanh viên
khuyên bảo “người dân phải và chỉ nghe tin tức từ các trang thuộc chính phủ,
đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước, không nghe theo những tin tức từ những
nguồn không chính thống”, thì chúng ta nên tự đặt câu hỏi, là liệu những trang
thông tin không chính thống đó có phải là nguồn tin giả hay không?
Với
bài viết này, tôi hy vọng sẽ vẽ ra được lằn ranh mỏng manh giữa tin tức giả và
tin tức “không chính thống” ở Việt Nam.’
Tin giả “Hillary
Clinton nhận nuôi đứa trẻ người ngoài hành tinh” năm 1993. Ảnh: Flickr.
Làn
sóng tin tức giả trên thế giới và Việt Nam
Tin
tức giả không phải điều gì mới mẻ trên thế giới.
Vào
tháng 6 năm 1993, tờ Weekly World News từng đưa lên trang bìa dòng tiêu đề
“Hillary Clinton nhận nuôi đứa trẻ người ngoài hành tinh” (“Hillary Clinton
Adopts Alien Baby.”) Một tiêu đề nhảm nhí và phi lý. Tuy nhiên, những dòng tin
từng khiến người ta nhướng mày, lắc đầu cách đây vài thập kỷ hiện nay đang bắt
đầu tìm thấy tầm ảnh hưởng khó tin của nó.
Thống
kê về chia sẻ tin tức trên Facebook trong suốt quá trình bầu cử Hoa Kỳ cho
thấy, khoảng 20 tin tức bầu cử giả đã được chia sẻ, “like” và bình luận tới 8,7
triệu lượt. Thêm vào đó, có đến 6 trên 9 độc giả chia sẻ những tin này mà không
cần nhấp vào đọc tin trước.
Những
loại tin giả như thế này thậm chí còn dẫn đến đe dọa bạo lực, mà đáng kể nhất
chính là vụ ‘Pizzagate’.
Được
chia sẻ bởi các trang mạng, nhóm chính trị thuộc phe cực hữu (alt-right),
Pizzagate dựng nên một thuyết âm mưu xoay quanh cáo buộc Hillary Clinton và
John Podesta – một trong những nhà tài trợ hàng đầu của bà Clinton và cũng là
giám đốc chương trình bầu cử của bà, đang vận hành một đường dây buôn người và
trẻ em, ẩn mình trong một số chuỗi nhà hàng Pizza, như Ping Pong Comet.
Tuy
nhiên, cách mà loại tin này ra đời cũng vô cùng khoa học và có trình tự.
Ngày
30 tháng 10 năm 2016, một tài khoản Twitter ảo tự nhận mình là luật sư gốc Do
Thái đang làm việc tại New York đăng tải thông tin được cho là của Sở Cảnh sát
New York ghi nhận rằng họ đã phát hiện một đường dây ấu dâm chuyên phục vụ cho
nhiều thành viên Đảng Dân chủ.
Đến
đầu tháng 11 năm 2016, nhiều người dùng mạng phát hiện một số thư điện tử của
Podesta bị WikiLeakscông bố có những ám hiệu, ẩn ngữ thường được dùng để nói về
giới ấu dâm và các đường dây buôn người.
Hai
thông tin được YourNewsWire tổng hợp, sau đó được nhiều trang web ủng hộ ông
Trump thêm thắt, như SubjectPolitics.com. Thông tin cuối cùng được loan tải cho
rằng Hillary và John đang vận hành đường dây ấu dâm nói trên. Nhiều trang như
Conservative Daily Post còn khẳng định chắc nịch rằng tư gia của bà Hillary đã
bị cảnh sát New York lục soát, và rằng FBI cũng đã lên tiếng công nhận sự việc.
Tin
tức giả, như ví dụ trên, có thể hiểu là những tin tức hoàn toàn sai sự thật, dù
có thể được xây dựng dựa trên một vài dữ kiện có thật. Tuy nhiên, “fake news”
được cho là phức tạp hơn thế nhiều. Theo phân tích của Claire Wardle, có thể chia tin tức
giả thành sáu nhóm chủ yếu:
Nhóm
liên kết giả tạo (false connection): Tức tiêu đề, hình ảnh
hay phụ đề cho một bài báo không hề liên quan gì đến nội dung bài báo đó.
Nhóm
ngữ cảnh giả tạo (false context): Thông tin có thật nhưng được đặt
trong một bối cảnh giả tạo, cắt ghép. Clip người dân có hoàn cảnh khó khăn nhận
tiền hỗ trợ của các cơ quan đoàn thể bị biến thành clip phản động nhận tiền
biểu tình của Việt Tân là một trong những ví dụ cụ thể nhất.
Nhóm
nội dung bị thao túng (manipulated content): Hình ảnh, thông tin
thực, nhưng bị thao túng để truyền tải một thông điệp khác. Có thể lấy việc cắt
xén bài phát biểu của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt về hộ chiếu Việt Nam từ
những năm 2008, biến bình luận chân thật và có tính xây dựng của ông trở thành
câu nói “mang hộ chiếu Việt Nam rất nhục nhã” là minh chứng cụ thể.
Nhóm
nội dung nhằm gây hiểu lầm (misleading content): Tin tức hình
ảnh thật, nhưng không đầy đủ và khiến người tiếp nhận hiểu nhầm.
Nhóm
tin tức giả danh (imposter content): Tức giả danh các hãng truyền
thông đáng tin cậy để đưa tin thất thiệt.
Nhóm
tin tức giả tạo hoàn toàn (fabricated content): Những tin tức không
đúng sự thật, được thiết kế để làm sai lệch sự kiện, tác động tâm lý người tiếp
nhận và gây thiệt hại cho công cộng.
Với
những dạng thông tin nói trên, không khó để mọi người đều đi tới một đồng thuận
chung rằng, tin tức giả là một căn bệnh cho xã hội hiện đại và cần được xử lý
triệt để.
BBC bị cho là “đài
địch” và thường xuyên bị chặn ở Việt Nam. Ảnh: Chụp màn hình.
Sự
thật về tin tức “không chính thống”
Tuy
nhiên, cũng cần khẳng định rằng, theo cách hiểu của phương Tây, tin tức giả và
tin tức “không chính thống” không đồng nghĩa với nhau.
Nguồn
tin không chính thống thường được liên hệ với mô hình các phương tiện truyền thông thế hệ mới (new media),
bao gồm những cách thức truyền tải thông tin mới như blog, youtube, trang cá
nhân trên mạng xã hội và những trang tin tức trực tuyến. Sức mạnh của thế hệ
mới rõ ràng đang lấn át và thậm chí thay thế dần hệ thống truyền thông đại
chúng đời cũ như báo giấy, truyền hình và đài phát thanh.
Điểm
đặc biệt cần lưu ý là phương tiện truyền thông thế hệ mới không vi phạm pháp
luật nước ngoài, điều này được thể hiện trong án lệ Apple v. Does mà Luật Khoa
từng có cơ hội phân tích. Truyền thông đại chúng, vì vậy, buộc phải thích nghi
và cạnh tranh sòng phẳng với các mô hình thông tin thế hệ mới.
Tuy
nhiên, tại Việt Nam, tin tức không chính thống dù cũng là các phương tiện
truyền thông thế hệ mới, đều bị xem là không phù hợp với quy định pháp luật
hiện nay.
Về
lý thuyết, chỉ những cơ quan, tổ chức do chính phủ Việt Nam ấn định, cấp phép
mới được phép mở báo. Nhiều người cho rằng yêu cầu này là chính xác, vì truyền
thông, tin tức không phải là chỗ để ai cũng có thể mở, ai cũng có thể đưa tin.
Mỉa
mai thay, ông Nguyễn Ái Quốc đã dành gần 20 năm bôn ba ở nước ngoài để chỉ
trích chính cái điều này.
“Tôi
gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay vǎn học như ta thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ do chính quyền thành lập và giao cho bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ
vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hoá và ru ngủ dân chúng. Báo đầu độc người ta
như thế, thì ở Đông Dương cũng có ba hay bốn tờ đấy.”
Những
lời của Nguyễn Ái Quốc cho thấy ông ủng hộ tin không chính thống hơn cả những
thông tin chính quy do chính quyền phê duyệt, đặc biệt khi những thông tin
chính quy chỉ tập trung ca tụng công ơn nhà cầm quyền và ru ngủ dân chúng.
Những
trang thông tin dù ở thời đại nào vẫn cần có trách nhiệm với uy tín và niềm tin
của người đọc. Thế nhưng, báo chí không nên phải gánh chịu trách nhiệm trước
đòn roi của các đảng phái chính trị.
Báo
chí phải được hoàn toàn thoải mái bày tỏ quan điểm trước những sự thật mất
lòng. Báo chí nên ở vị trí có thể nói những thứ không thể nói được trong môi
trường chính trị. Họ không cần phải tìm kiếm phiếu bầu, mà cũng không cần phải
quan tâm đến môi trường học thuật.
Những
điều trên yêu cầu một thế hệ nhà báo xuất thân từ một môi trường khác, sống một
cuộc đời khác. Và các nhân tố truyền thông thế hệ mới tại Việt Nam rõ ràng đang
làm xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Về
việc bắt giữ Trịnh Xuân Thanh, báo chí chính thống nhiều lần khẳng định ông này
đầu thú và tự nguyện bay về Việt Nam từ Đức và VTV cũng trình diễn phần phỏng
vấn ông Thanh không lâu sau đó.
Thế
nhưng, những người theo dõi hệ thống tin tức không chính thống của “thế lực thù
địch” đều biết rằng ông này bị mật vụ Việt Nam bắt cóc. Nhiều người Đức gốc
Việt và các quan chức Việt Nam tham gia lên kế hoạch cuộc bắt bớ này đều bị đưa
vào tầm ngắm của giới chức trách Đức.
Sự
thật? Phe “đài địch” đưa tin chuẩn hơn cả.
Hay
về Luật An ninh mạng và Dự luật về Đặc khu. Báo chí chính thống luôn ca ngợi
rằng hai dự luật này là thật sự cần thiết để phát triển kinh tế, bảo vệ trật tự
trị an và an ninh quốc gia.
Nhưng
những nguồn thông tin của báo chí không chính thống cho độc giả cái nhìn đa
chiều hơn. Họ nhắc đến “quốc gia láng giềng chung đường biên giới với tỉnh
Quảng Ninh”. Họ thông tin và phân tích thành quả 99 năm của Trung Quốc tại Sri
Lanka, tại Châu Phi. Họ chỉ ra khả năng công an, an ninh có thể lấy thông tin
của bạn chỉ với một mảnh văn bản mà không cần trát của tòa hay viện kiểm sát.
Họ tạo cơ hội cho những trí thức kinh tế có diễn đàn (và động lực) để bày tỏ
quan điểm.
Sự
thật? Không có sự thật. Nhưng ít ra sự đa nguyên của tin tức không chính thống
giúp độc giả hoài nghi những lời ca tụng. Và đó cũng là điều tốt.
Còn
rất nhiều câu chuyện để chứng minh sự cần thiết của tin tức không chính thống
trong thế giới tin tức đúng “định hướng lãnh đạo” của đảng và nhà nước.
Nhưng
có thể khẳng định rằng tin của “đài địch”, tin tức không chính thống, không
phải lúc nào cũng là tin giả. Ngược lại, tin lề phải, tin ủng hộ chính quyền
không phải bao giờ cũng là thật.
No comments:
Post a Comment