Lê Hồng
Hiệp
Cập nhật: 09:55 GMT - thứ hai, 31 tháng 3,
2014
Lê Hồng Hiệp là nghiên cứu sinh tiến sĩ Ngành Khoa học Chính trị, Trường Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học New South Wales, Úc
Ngày
17/3/2014, Quốc hội Cộng hòa tự trị Crimea và thành phố Sevastopol tuyên bố độc
lập khỏi Ucraine và đệ đơn xin gia nhập Liên bang Nga.
Theo đó, một hiệp ước cho phép Crimea sáp nhập vào
Nga đã được Quốc hội Nga thông qua và sau đó được Tổng thống Nga Vladimir Putin
phê chuẩn vào ngày 21/3.
Hành động của Nga đã bị nhiều nước trên thế giới lên
án và phản đối kịch liệt vì Nga đã vi phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ của Ukraine.
Cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton hay Ngoại
trưởng Canada John Baird thậm chí còn so sánh hành động nuốt chửng Crimea của
Nga với việc Đức Quốc xã thôn tính Sudetenland của Tiệp Khắc ngay trước Thế
chiến II với cùng một lý do là bảo vệ các kiều dân của mình sống ở các vùng đất
đó.
Quan
điểm mập mờ của Việt Nam
Tuy nhiên, ngày 21/3/2014, trả lời câu hỏi của phóng
viên đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam về việc Crrimea và Sevastopol được
sáp nhập vào Liên bang Nga, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nói:
“Việt Nam quan tâm theo dõi chặt chẽ tình hình tại Ukraine và Crimea.
Chúng tôi mong mọi vấn đề sẽ được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, trên
cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyện vọng
chính đáng của người dân để tình hình sớm ổn định, vì hòa bình và ổn định ở khu
vực và trên thế giới.”
Có thể hiểu do nhiều lý do (sẽ phân tích ở dưới),
đây là một tuyên bố mập mờ có chủ đích của Bộ Ngoại giao.
Thế nhưng sự mập mờ này lại khiến lời tuyên bố có
thể được diễn giải theo nhiều cách, trong đó có những cách không có lợi cho
Việt Nam.
Ví dụ, trong khi cho rằng vấn đề Crimea cần được
giải quyết “trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”
một cách chung chung mà không hề nhấn mạnh đến nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ mà Việt Nam thường đề cao trong các trường hợp
tương tự, thì việc tuyên bố cho rằng các bên cần “tôn trọng… nguyện vọng chính
đáng của người dân” trong bối cảnh Crimea vừa tiến hành trưng cầu dân ý có thể
được diễn dịch như là việc Việt Nam ủng hộ Crimea ly khai khỏi Ukraine và sáp
nhập vào Nga.
Tương tự, trong cuộc bỏ phiếu thông qua Nghị quyết
68/39 tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 27/3/2014 về việc khẳng định sự
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của Ukraine và tuyên bố việc Crimea sáp
nhập vào Nga thông qua trưng cầu dân ý là vô hiệu, Việt Nam đã bỏ phiếu trắng
trong khi đa phần các quốc gia ASEAN khác đều bỏ phiếu thuận.
Về lời phát ngôn, để so sánh, khi đưa ra tuyên bố về
việc Quốc hội Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Serbia vào tháng 2/2008
người phát ngôn Bộ Ngoại giao lúc đó là ông Lê Dũng đã nhấn mạnh:
“Việt Nam luôn quan tâm sát sao những diễn biến tình hình xung quanh vấn
đề Kosovo và mong muốn các bên liên quan đối thoại, thương lượng để giải quyết
những bất đồng nhằm đạt được một giải pháp toàn diện cho vấn đề Kosovo, bảo đảm
lợi ích chính đáng của các dân tộc liên quan, vì hòa bình bền vững ở châu Âu và
trên thế giới, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến
chương Liên hợp quốc, trong đó có nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của các quốc gia".
Hai sự kiện ở Kosovo và Crimea có một số điểm tương
đồng đáng kể, tiêu biểu là có sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài vào công
việc nội bộ của Serbia và Ukraina, và đặc biệt là việc Kosovo và Crimea ly khai
dưới sự hỗ trợ của các lực lượng bên ngoài đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền
quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của cả hai quốc gia này.
Vốn luôn đề cao việc tôn trọng chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ như là một nguyên tắc cốt lõi trong quan hệ quốc tế, vậy tại
sao lần này Việt Nam lại thay đổi quan điểm chính thức?
Lý giải
Có ba lý do khả dĩ nhất có thể lý giải cho sự khác
biệt giữa hai lời tuyên bố quan điểm này.
Thứ
nhất, trong trường hợp Kosovo, đối tượng tiếp tay cho sự
ly khai của tỉnh này khỏi Serbia là một tập thể bao gồm Hoa Kỳ, EU và các nước
phương Tây, những đối tượng mà Việt Nam có thể chỉ trích tập thể mà không e
ngại bị ảnh hưởng tới quan hệ song phương.
Trong trường hợp của Crimea, thủ phạm duy nhất lại
là Nga. Tuy nhiên, Việt Nam có quan hệ tốt với Nga, hai nước hiện là “đối tác
chiến lược toàn diện” của nhau, và giới chức Hà Nội có nhiều người, đặc biệt là
những người từng được đào tạo tại Liên Xô cũ, vẫn còn mang tư tưởng có thể gọi
là “thân Nga”.
Việc chỉ trích Nga trong trường hợp này có thể tác
động tiêu cực tới quan hệ Việt – Nga và tạo nên sự miễn cưỡng trong tâm lý của
một số giới chức.
Điều này góp phần lý giải tại sao một số cơ quan
thông tấn chính thức của Việt Nam đã bình luận theo hướng ủng hộ hành động của
Nga tại Crimea.
Thứ
hai, trong trường hợp Crimea còn có vấn đề tính hợp pháp
của chính quyền lâm thời được thành lập sau cuộc cách mạng đường phố tại Kiev.
Dù không tuyên bố chính thức nhưng trong con mắt của
Hà Nội, chính quyền hiện tại vẫn là bất hợp pháp bởi nó được thành lập thông
qua các phong trào biểu tình, lật đổ, những điều mà bản thân Hà Nội hết sức
phản đối và đề phòng.
Điều này thể hiện qua việc một Tài liệu tuyên truyền về những biến
động chính trị - xã hội tại U-crai-na
trong thời gian gần đây đã nhấn mạnh rằng cần “giúp cán bộ, đảng viên và nhân
dân hiểu rõ nguyên nhân gây ra biến động chính trị - xã hội (Ukraine), trong đó
có vấn đề đa đảng và sự kích động chống phá của các nước phương Tây”, và “nâng
cao sức ‘tự đề kháng’ trong cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân để góp
phần vào cuộc đấu tranh chống ‘diễn biến hòa bình’ của các thế lực thù địch và
ngăn chặn ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’ trong nội bộ có hiệu quả.”
Vì vậy nếu Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp chỉ
trích Nga thôn tính Crimea thì điều này có thể được diễn giải là Việt Nam ủng
hộ hay ít nhất là đồng cảm với chính quyền mới ở Kiev, một điều mà Hà Nội có
thể không mong muốn.
Thứ
ba, không loại trừ khả năng bản thân một số giới chức
ở Hà Nội có thể coi hành động thôn tính Crimea của Nga là thỏa đáng, ví dụ xét
trên các căn cứ lịch sử (Crimea từng là lãnh thổ của Nga dưới thời Liên Xô và
chỉ được chuyển giao cho Ukraine vào năm 1954), lý do sắc tộc (Crimea có hơn
60% là người gốc Nga) hay thực tiễn chính trị (trong cuộc trưng cầu dân ý ngày
16/3, hơn 95% người đi bỏ phiếu đồng ý Crimea sáp nhập vào Nga).
Nguyên
nhân có thuyết phục?
Việc Việt Nam không nhấn mạnh các nguyên tắc chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trong tuyên bố của mình về vấn đề Crimea là
một quyết định khó hiểu, có thể nói là đi ngược lại nguyên tắc chính sách đối
ngoại của Việt Nam lâu nay.
Quan
trọng hơn, cả ba lý do khả dĩ vốn có thể giải thích cho quyết định của Việt Nam
nêu trên đều không có cơ sở vững chắc.
Thứ
nhất, nếu lý do Việt Nam không nhấn mạnh các nguyên tắc
nêu trên vì sợ nếu nhấn mạnh sẽ bị coi là một động thái chỉ trích Nga thì điều
này thể hiện sự thiếu độc lập, tự chủ trong chính sách đối ngoại mà lâu nay
Việt Nam vẫn nhấn mạnh.
Mặt khác, điều này cũng trái với phương châm “vừa
hợp tác, vừa đấu tranh” trong quan hệ quốc tế mà Việt Nam từ lâu theo đuổi.
Theo đó, Việt Nam hợp tác với Nga cũng như các đối tác khác như Mỹ và Trung
Quốc trong các lĩnh vực song trùng lợi ích, nhưng đồng thời có thể “đấu tranh”
ở những điểm có khác biệt.
Vì vậy, nếu Việt Nam nhìn nhận việc Crimea ly khai
khỏi Ukraine và Nga sáp nhập Crimea là trái với luật pháp quốc tế thì cần thể
hiện quan điểm, mà cách nhẹ nhàng nhất là nhấn mạnh các nguyên tắc về chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ như trong tuyên bố về Kosovo nêu trên.
Một tuyên bố như vậy chưa chắc đã gây nên phản ứng
tiêu cực từ Nga, hoặc nếu có cũng sẽ sớm lắng xuống vì bản thân Nga vẫn cần duy
trì quan hệ tốt với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nước này đang bị các nước
phương Tây trừng phạt và cô lập.
Thứ
hai, việc chính quyền Việt Nam e ngại trước việc phe đối
lập giành chính quyền thông qua biểu tình, lật đổ là có thể hiểu được.
Tuy nhiên, điều này không nên ngăn cản việc Việt Nam
ủng hộ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine.
Việc
công nhận chính phủ và công nhận quốc gia là hai việc hoàn toàn khác nhau trong
luật pháp quốc tế. Cho dù Việt Nam không công nhận chính phủ mới của
Ukraine thì Việt Nam vẫn cần phải tiếp tục công nhận Ukraine với tư cách là một
quốc gia có chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ cần được bảo vệ theo luật
pháp quốc tế.
Việc Nga can thiệp vào Crimea và dùng lá bài “trưng
cầu dân ý” để sáp nhập vùng đất này tạo ra một tiền lệ xấu có thể ảnh hưởng tới
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Là một nước đã từng và vẫn đang phải phải đấu tranh
để bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình, Việt Nam có lợi
ích hơn ai hết trong việc đề cao và giữ vững nguyên tắc này.
Thứ
ba, nếu ai đó cho rằng hành động của Nga thôn tính
Crimea là thỏa đáng thì có lẽ họ cần cân nhắc lại các lập luận của mình.
Một mặt, nếu dựa vào lý do lịch sử rằng “trong trái
tim và tâm trí của mọi người, Crimea vẫn luôn là một phần không thể tách rời
của Nga” như lời của Tổng thống Putin thì có lẽ toàn bộ biên giới châu Âu cũng
như nhiều nơi khác trên thế giới đều có thể được vẽ lại.
Ở Đông Dương, Sam Rainsy sẽ càng có cớ để dùng chiêu
bài Khmer Krom nhằm gây bất ổn cho Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Mặt khác, việc Nga biện minh cho việc can thiệp vào
Crimea bằng lý do Crimea có hơn 60% dân số gốc Nga hay để bảo vệ kiều dân Nga ở
đó cũng không thỏa đáng bởi chưa có bằng chứng nào cho thấy những người gốc Nga
ở Crimea đang bị đe dọa về tính mạng hay tài sản.
Bản thân những người gốc Nga này đang sinh sống trên
lãnh thổ Ukraine, là công dân Ukraine thì cũng có nghĩa vụ tôn trọng hiến pháp
Ukraine.
Để liên hệ, nếu Campuchia dùng lý do tương tự để can
thiệp vào các tỉnh như Trà Vinh và Sóc Trăng, nơi có khoảng 30% dân số là người
gốc Khmer, thì liệu điều đó có chấp nhận được với Việt Nam hay không?
Cuối
cùng, tính hợp pháp của cuộc trưng cầu dân ý diễn ra ở
Crimea là một điều không chắc chắn.
Trước khi cuộc trưng cầu dân ý diễn ra các lực lượng
của Nga đã hiện diện tại đây. Dưới áp lực của “lực lượng chiếm đóng” này, kết
quả của cuộc trưng cầu dân ý hoàn toàn có thể bị nghi ngờ.
Điều này càng rõ ràng hơn khi trong cuộc thăm dò
công luận được tiến hành trước đó bởi Viện Cộng hòa Quốc tế vào tháng 5/2013,
chỉ có 23% số người trả lời bày tỏ nguyện vọng muốn Crimea sáp nhập vào Nga,
thấp hơn nhiều so với kết quả của cuộc trưng cầu dân ý ngày 16/3.
Phân tích trên cho thấy quan điểm chính thức của
Việt Nam về vấn đề Crimea cần được điều chỉnh lại cho rõ ràng hơn.
Là một nước có những vấn đề tiềm tàng của riêng
mình, đồng thời đã chịu nhiều hậu quả trong lịch sử từ sự can thiệp của các
cường quốc bên ngoài, Việt Nam cần giữ vững và đề cao nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trong các tuyên bố của mình về vấn đề
Crimea cũng như các vấn đề tương tự.
Điều này không chỉ giúp giữ vững các nguyên tắc đối
ngoại truyền thống của Việt Nam mà còn phát đi các thông điệp đúng đắn đến cộng
đồng quốc tế cũng như người dân trong nước về quan điểm đối ngoại cũng như tầm
nhìn về lợi ích quốc gia của nhà nước Việt Nam.
Bài
viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giác, một giảng
viên tại khoa Quan hệ quốc tế, trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia TPHCM và
là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng
Australia, Canberra.
No comments:
Post a Comment