Đoàn
Viết Hoạt
March 29, 2014
March 29, 2014
Sau
gần hai thế kỷ thực hiện cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ nhất, từ khoảng 1760
đến giữa thế kỷ 19, với sự ra đời của máy chạy bằng hơi nước, các nước Âu-Mỹ đã
nhanh chóng trở nên hùng mạnh và thịnh vượng vượt bực. Cuối thế kỷ 19, điện năng được chế tạo và sử dụng trong công nghiệp, đưa
các nước Âu châu vào giai đoạn công nghiệp hóa lần thứ hai. Với lực lượng hải
quân trang bị vũ khí mạnh cùng với các đội thương thuyền lớn vượt đại dương
mang hàng hóa đến khắp nơi trên thế giới, giữa thế kỷ 19, các nước Tây phương
đã tràn đến Á châu chiếm đóng nhiều nước làm thuộc địa. Trong bài này chúng tôi
sẽ điểm qua chính sách đối phó với Tây phương của 2 nước Nhật Bản và Trung Hoa,
và đối chiếu với chính sách của Việt Nam.
Nhật Bản
Lịch sử cho thấy Nhật bản, như là một quốc gia, hình
thành chậm hơn nhiếu quốc gia khác trong khu vực Đông Bắc Á. Ngay cả việc trồng
lúa, theo sử liệu, cũng chỉ được du nhập vào Nhật bản khoảng năm 100 trước Công
Nguyên. Việc chế tạo và sử dụng sắt cũng được du nhập từ Triều Tiên. Quốc gia
Nhật Bản có kinh đô và Thiên hoàng, nhưng sự tranh chấp giữa các thủ lãnh địa
phương và các đại gia đình quý tộc kéo dài suốt chiều dài lịch sử Nhật Bản. Cho
đến giữa thế kỷ 16, Nhật Bản mới bắt đầu tạm ổn định, dù tranh chấp quyền lực
vẫn còn diễn ra giữa một vài đại gia quyền quý. Đây cũng là thời kỳ mở đầu cho
nước Nhật tiếp cận với Tây phương.
Người Bồ Đào Nha đến Nhật năm 1543và mở ra thời kỳ
mậu dịch kéo dài gần một thế kỷ. Người Tây Ban Nha đến Nhật năm 1587, tiếp đó
là người Hòa Lan, năm 1609. Thiên chúa giáo đến Nhật năm 1549 và sau một thời
gian ngắn đã có tới khoảng 100.000 đến 200.000 người Nhật trở thành tín đồ
Thiên chúa giáo. Những nhà lãnh đạo Nhật Bản từ đó đã bắt đầu tìm hiểu phương
Tây, chú ý đến các cơ hội mới để phát triển kinh tế, cũng như sự thách thức
chính trị đối với quyền lực của họ. Năm 1587, lãnh chúa Hideyoshi cho rằng sự
có mặt của đạo Ki-tô làm chia rẽ nội bộ Nhật Bản, làm chiêu bài cho Châu Âu xâm
chiếm Nhật. Luật cấm đạo Thiên Chúa đã được ban hành, nhưng chưa được thi hành
triệt để. Trong thời gian cầm quyền của Mạc Phủ Tokugawa(Đức Xuyên Mạc Phủ),
cũng gọi là Mạc Phủ Edo, kéo dài từ 1603 cho đến năm 1868, Nhật Bản áp dụng
chính sách Sakoku (tỏa quốc) đóng cửa biên giới Nhật, không cho Tây phương vào,
trừ Hòa Lan, Trung Hoa và Triều Tiên.
Cùng với chính sách tỏa quốc này, năm 1620, luật cấm
đạo Ki tô được triệt để áp dụng. Tất cả những nhà giảng đạo ngoại quốc đều bị
trục xuất khỏi nước Nhật. Toàn bộ các cộng đồng giáo dân bị tiêu diệt, tất cả
nhà thờ bị phá hủy. Những người theo đạo Ki tô đều phải lẩn trốn, nhiều người
phải sống trong những nhà hầm dưới đất để có thể tiếp tục sinh hoạt đạo. Việc
buôn bán của người Âu Châu thì vẫn được phép tiếp tục. Chính sách cấm đạo gắt
gao, triệt để này kéo dài cho đến thập niên 1870 mới chấm dứt, và hoạt động Ki
tô giáo mới chính thức được phép tiến hành trở lại. Có lẽ ảnh hưởng sâu đậm của
Phật giáo cùng tinh thần võ sĩ đạo đã hậu thuẫn cho chính sách chống Ki tô giáo
quyết liệt, triệt để và lâu dài này của Nhật Bản. Và có lẽ đó cũng là lý do
khiến Ki tô giáo không phát triển mạnh được ở Nhật, như ở một số nước Á châu
khác.
Năm 1853 và 1854, Thuyền trưởng hải quân Mỹ Matthew
C.Perry đã buộc được Nhật Bản phải mở cửa cho Mỹ vào buôn bán. Nhiều quốc gia
khác cũng gây áp lực buộc Nhật Bản phải ký kết các hiệp ước buôn bán bất bình
đẳng. Việc này gây bất mãn trong dân chúng, và nhất là trong giới đại danh gia.
Phái yêu nước phát động chiến dịch sonnō jōi (nghĩa là Tôn Hoàng, Nhương Di),
tôn trọng Thiên hoàng để đuổi người ngoại quốc ra khỏi xứ sở. Cuối cùng Thiên
hoàng Minh trị thắng thế Mạc Phủ, lên ngôi năm 1867, và thực hiện chính sách mở
cửa với Tây phương và canh tân nước Nhật.
Nói về nước Nhật hiện đại không thể không nhắc đến
Fukuzawa Yukichi(1835-1901), một người được coi như Voltaire của nước Nhật.
Fukuzawa xuất thân trong một gia đình võ sĩ đạo, thuộc đẳng cấp thấp. Ông học
tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, sớm có tư tưởng tự do, phóng khoáng. Ông có nhiều dịp
tháp tùng các phái đoàn chính quyền Nhật đi Mỹ và Âu châu. Ông thấy được vai
trò quan trọng của giáo dục nên đã viết sách và mở trường, và đã lập ra trường
đại học đầu tiên của nước Nhật (Keio-Gijuku University). Trong các trước tác
của ông, đáng kể là cuốn tự điển Anh-Nhật, tự điển đầu tiên tại Nhật, bộ sách
địa lý thế giới và bộ sách ký sự kể về đời sống Âu-Mỹ, kể lại những gì ông biết
về Tây phương, qua các chuyến đi công tác của ông. Ông đưa ra quan điểm “độc
lập quốc gia qua độc lập cá nhân”, theo đó ông muốn mỗi người dân Nhật phải
tăng cường sức mạnh và hiểu biết của bản thân, để cùng nhau xây dựng một nước
Nhật hùng cường, đủ sức cạnh tranh với tất cả các nước. Ông cho rằng các nước
Tây phương hùng cường được là nhờ tập trung vào giáo dục, phát huy sự độc lập
cá nhân, sự cạnh tranh và trao đổi tư tưởng.
Như thế, nước Nhật lúc đầu cũng kháng cự lại sự xâm
nhập của Tây phương, bằng chính sách bế môn tỏa cảng, trong một thời gian lâu dài,
từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19. Áp lực quân sự cùng các hiệp ước buôn bán
bất bình đẳng đã làm cả triều đình và giới thức giả, võ sĩ đạo, cùng thức tỉnh,
nhanh chóng nhận ra sự yếu kém của nước Nhật nên chấp nhận mở cửa canh tân nước
Nhật. Với sự đồng thuận quốc gia cao độ như thế, chỉ trong vòng vài thập niên,
Nhật Bản đã trở nên hùng cường, đủ sức đánh bại quân đội nhà Thanh năm
1894-1895, và phá tan cả lục quân và hải quân Nga năm 1904-1905.
Trung
Quốc
Nhìn sang Trung quốc, tình hình khác hẳn. Trước khi
sức mạnh quân sự và thương mại Tây phương tràn đến Trung Hoa, quốc gia này là
một đế chế hùng mạnh nhất ở Á Châu. Theo nhiều sử liệu thì ngay từ thế kỷ 15,
Đô đốc Trịnh Hòa đã có lúc chỉ huy môt hạm đội gồm 300 thuyền buồm và 30.000
người đi qua eo biển Malacca, ghé Bengal, Ấn Độ và vài nơi ở Đông Phi. Dưới đời
vua Ung Chính, vào giữa thế kỷ 18, nước Trung Hoa có lúc đã bành trướng lãnh
thổ, rộng đến 13 triệu cây số vuông, so với ngày nay là 9.6 triệu. Nhưng kể từ
đầu thế kỷ 19 trở đi, Trung Hoa suy yếu dần với nội loạn và ngoại xâm. Bên
ngoài thì đế chế Trung hoa bị các cường quốc Âu châu áp bức. Bên trong thì kinh
tế trì trệ, nhân dân cùng khổ, nổi loạn khắp nơi. Miền Nam Trung hoa bị nhóm
Thái Bình Thiên Quốc của người Hán quấy phá, chiếm đóng nhiều vùng, dương ngọn
cờ “phản Thanh phục Minh”. Quan lại thì tham nhũng, lạm quyền bóc lột nhân dân.
Triều đình thì mâu thuẫn, bất hòa. Năm 1861 nhân lúc vua mất, Từ Hy Thái Hậu
thực hiện đảo chính cung đình, bắt giam 8 vị quan trong ban nhiếp chính, chiếm
đoạt hoàn toàn quyền lực chính trị. Từ đó cho đến khi bà mất năm 1908, bà nắm
trọn quyền lực chính trị, quyết định những vấn đề trọng đại nhất của Trung Hoa.
Từ Hi Thái Hậu nắm quyền bính đúng vào lúc Âu-Mỹ
tràn đến uy hiếp Trung quốc. Bà để lại một di sản chính trị gây nhiều tranh
cãi. Trước đây, dư luận quốc tề thường đưa ra những nhận định tiêu cực về bà và
cho rằng bà đã gây ra sự sụp đổ của nhà Thanh và của Trung Hoa. Nhưng nhiều
nghiên cứu gần đây đã đánh giá lại công việc trị quốc của bà, trong đó có những
nhận định khách quan cho rằng sự sụp đổ của nhà Thanh nói riêng, và của chế độ
phong kiến nói chung tại Trung Hoa, là hệ quả tất nhiên của thời đại hơn là
trách nhiệm của cá nhân Từ Hi Thái Hậu.
Sử gia Sterling Seagrave, trong cuốn sách xuất bản năm
1992, cho rằng Từ Hi Thái Hậu là một nhà lãnh đạo bị mắc kẹt giữa khuynh hướng
bài ngoại, vốn có của triều đình, với khuynh hướng chính trị thực tế, hợp thời
đại hơn. Bà muốn dùng ảnh hưởng và quyền lực của mình để duy trì được triều đại
nhà Thanh không bị sụp đổ vì sự tranh chấp giữa hai khuynh hướng chính trị này.
Những diễn biến lịch sử Trung Hoa trong thời kỳ hậu
bán thế kỷ 19 cho thấy quan điểm này có cơ sở. Ngay sau khi đế chế hùng mạnh
Trung Hoa bị thất bại trong các trận chiến tranh với các nước Âu châu, nhiều
người trong giới sĩ phu và quan lại Trung Hoa, cả người Mãn và người Hán, đều
cho rằng phải nhanh chóng thay đổi. Họ chủ trương cuộc “vận động tự cường”. Đại
diện cho nhóm này là Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương. Họ tìm đến một số ít
sinh viên đã du học ngoại quốc, trong đó có Ung Wing đã học ở Yale năm 1854.
Ung Wing đề nghị triều đình gửi 120 sinh viên du học, phần lớn qua Mỹ. Từ Hi
cũng cho mua 4 tầu chiến của Anh, nhưng khi tầu chiến về đến Trung Hoa, trên
tầu toàn binh lính Anh, họ chỉ tuân theo lệnh của chính phủ Anh nên Từ Hi cho
trả tầu về lại Anh. Từ Hi cũng cảnh giác với những quan điểm tự do dân chủ của
các du học sinh, do đó, năm 1881 bà không cho gửi học sinh đi du học nữa. Cuộc
“vận động tự cường” coi như chấm dứt.
Tuy nhiên sự thất bại của Trung Hoa trong các cuộc
chiến với các nước Tây phương đã làm giới nho sĩ thức tỉnh. Nhiều người đã
khuyến nghị triều đình thực hiện cải cách sâu rộng. Trong số này có Ngụy Nguyên
và Phùng Quế Phương, từ năm 1842, đã đưa ra kế hoạch mà họ gọi là Trù Hải
Thiên, là kế hoạch phòng thủ duyên hải. Họ đề nghị mở cửa cho người nước ngoài
vào làm ăn buôn bán, canh tân quân sự, bang giao với nhiều nước khác nhau để họ
cầm chân nhau. Riêng Phùng Quế Phương, đã sống ở Thượng Hải thuộc Anh, chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa tư bản, đã đề nghị canh cải giáo dục, học các môn khoa học,
kỹ thuật và kinh doanh tư bản. Ông cũng đưa ra lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh
thần Khổng Mạnh nhưng áp dụng khoa học kỹ thuật của phương Tây.
Những vận động canh tân này đều nằm trong phong trào
Dương vụ (Yanwu) do Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên chủ trương, được nhiều quan
lại cấp tiến ủng hộ. Họ kêu gọi liên kết với tư bản Âu-Mỹ, mở các công xưởng
quân sự, chế tạo máy móc, vũ khí. Nhờ phong trào này, đã xuất hiện một số xí
nghiệp tư doanh và hợp doanh giữa tư nhân và chính phủ. Tại nhiều địa phương,
những người có tiền đã mua sắm máy móc, mở công ty. Đồng thời các nhà tư bản
Âu-Mỹ cũng mở các công xưởng chế tạo sản phẩm tiêu dùng tại các địa phương mà
triều đình nhà Thanh buộc phải nhượng cho họ.
Những canh cải trên đây phần lớn do các nho sĩ tiến
bộ và những người giầu có chủ trương và chủ động thực hiện. Nhưng phong trào
Dương vụ cũng như cuộc vận động tự cường không chủ trương thay đổi thể chế
chính trị. Phải đến khi xẩy ra chiến tranh Trung-Nhật, việc một nước nhỏ yếu
hơn đánh thắng một đế chế từng tự hào thống lãnh toàn “thiên hạ” đã làm dấy lên
phong trào đòi thay đổi toàn diện.
Hai người đi đầu trong phong trào này là Khang Hữu
Vi và Lương Khải Siêu, đưa ra khẩu hiệu vận động “toàn biến, tốc biến” (biến
đổi toàn diện và nhanh chóng). Họ vận động các nho sinh cử nhân cùng họ dâng
kiến nghị lên triều đình. Lương Khải Siêu dẫn 190 cử nhân lên kinh đô luận bàn
thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng 3,000 cử nhân dâng thư xin thực hiện “biến pháp”.
Nhưng những đề nghị của hai nhóm này đều không được triều đình chấp thuận.
Năm 1896 Khang Hữu Vi lại khuyến nghị biến pháp, kêu
gọi duy tân. Lần này vua Quang Tự đang nắm thực quyền, Từ Hi Thái Hậu đã rút
vào hậu trường. Vua cũng muốn canh tân nên đã cho mời Khang Hữu Vi và Lương
Khải Siêu vào triều bàn luận. Tất cả các đề nghị của hai ông đều được nhà vua
chấp thuận, từ việc canh tân giáo dục, cải tổ thi cử, đến lập ngân hàng, làm
đường xe lửa, lập hội buôn, mở rộng ngôn luận… Chỉ trong một thời gian ngắn,
hơn một trăm, đạo chiếu được ban ra để thực hiện các cải cách này. Từ Hi biết
được đã tìm cách ngăn cản và ra lệnh giam lỏng Quang Tự. Khang Hữu Vi và Lương
Khải Siêu đều phải bỏ trốn qua Nhật. Lich sử sau này gọi đây là cuộc cải cách
100 ngày (Bách nhật duy tân).
“Tự cường”, “Dương vụ” hay “Duy tân” đều giống nhau
ở một điểm: vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyên chế. Nhiều trí thức tân học
không đồng ý duy trì chế độ quân chủ chuyên chế. Những người này chia thành hai
khuynh hướng. Một khuynh hướng chủ trương chế độ quân chủ lập hiến như Nhật
bản, trong đó có Viên Thế Khải, có lúc đã xưng vương một thời gian ngắn, sau
lại vận động để được làm Tổng Thống Lâm Thời, sau cách mạng Tân Hợi 1911. Một
khuynh hướng khác, chủ trương phế bỏ chế độ quân chủ, thay thế bắng chế độ dân
chủ. Người đứng đầu khuynh hướng này, Tôn Dật Tiên, đã lãnh đạo thành công cuộc
cách mạng Tân Hợi lập ra nước Cộng Hòa Trung Hoa, và những người Cộng sản, hiện
đang lãnh đạo nước Trung hoa cộng sản.
Như vậy tại Trung Hoa, việc Tây phương tràn vào xâm
lấn, xâu xé và hạ nhục Trung quốc, đã tạo ra 3 khuynh hướng chính trị với 3
phản ứng khác nhau. Khuynh hướng bảo hoàng thì tìm cách canh tân đất nước trong
khuôn khổ chế độ quân chủ Khổng giáo. Khuynh hướng thứ hai chủ trương canh tân
theo mô hình quân chủ lập hiến. Khuynh hướng cách mạng chủ trương thiết lập chế
độ dân chủ như các nước Tây phương. Khuynh hướng này thắng thế nhưng lại dẫn
đến tranh chấp giữa hai đường lối cách mạng và kiến thiết, hoàn toàn khác nhau,
mà hậu quả là đã tạo ra hai nước, hai chính thể Trung hoa như hiện nay.
Kết luận
So sánh hai trường hợp Nhật Bản và Trung Quốc, chúng
ta thấy có một điểm tương đồng. Cả hai nước đều “may mắn” chưa bị chiếm đóng
nên kịp canh tân đất nước, dù cả hai đều bị áp lực bằng quân sự, và phải nhượng
bộ hoặc một số vùng đất nước (Trung quốc), hoặc mở một số hải cảng cho ngoại
xâm vào buôn bán (cả Trung quốc và Nhật Bản). Việt Nam thì khác, bị Pháp chiếm
đóng toàn bộ miền Nam đất nước ngay từ những năm đầu đụng chạm với quân lực
Pháp. Và Pháp tiếp tục tiến đánh cho đến khi chiếm được toàn bộ Việt Nam. Sự
kiện tầu Mỹ bắn phá ngoại ô Tokyo và tầu Pháp bắn phá Thuận an gần như cùng một
thời gian với cùng một tầm mức, nhưng mục tiêu thật khác xa nhau. Nhật bản chỉ
cần chấp nhận mở cửa một số hải cảng cho Mỹ và các nước Tây phương vào buôn bán
là việc bắn phá được chấm dứt. Đối với Trung hoa cũng gần như thế. Các cường
quốc Âu Mỹ chỉ cần có một số khu vực trên đất Trung Hoa để tự do làm ăn buôn
bán là họ không tiếp tục đánh chiếm Trung hoa nữa. Mọi việc sau đó diễn ra như
thế nào là tùy triều đình, giới thức giả và nhân dân Trung hoa, Nhật bản tự
quyết định.
Nếu trước khi Nhật Bản kịp canh tân, mở cửa, và
trước khi Trung hoa kịp làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ, Mỹ hoặc các
nước Tây phương khác quyết tâm chiếm đóng hai nước này, thì chưa chắc Trung Hoa
và Nhật bản đã giữ được độc lập và yên ổn để canh tân. Và số phận của cà hai
nước này chưa chắc đã khá hơn Việt Nam. Riêng Nhật bản cũng đã thi hành chính
sách đóng cõi và tàn sát giáo dân Ki tô giáo quyết liệt và lâu dài không kém,
nếu không nói là triệt để hơn Việt Nam. Ở đây, phải chăng yếu tố địa lý chính
trị của Việt Nam, cửa ngõ giao thương hàng hải giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ
dương, có tính quyết định cho số phân của Việt Nam? Và nếu yêu tố địa lý chính
trị đáng được quan tâm thì phải chăng quan điểm về văn minh tiến bộ của chính
nhà cải cách hàng đầu Nhật bản Fukuzawa, người được coi là cha đẻ của nước Nhật
canh tân, đáng để chúng ta suy ngẫm. Quan điểm đó là: “văn minh tùy thuộc thời gian
và hoàn cảnh”. Hoàn cảnh (đia lý chính trị của Việt Nam) và thời gian (chiếm
Nam Kỳ chỉ 2 năm sau khi bắn phá thị uy ở Đà Nẵng) hoàn toàn không thuận lợi
cho Việt Nam để kịp canh tân đất nước như Nhật bản và ngay cả Trung Hoa.
Khi so sánh cách tiếp cận và đối phó với Tây phương
của ba nước Nhật bản, Trung hoa và Việt Nam, tôi muốn đưa ra một cách nhìn khác
với cách nhìn thông thường từ trước đến nay, cho rằng vua quan và trí thức Việt
Nam đã bảo thủ, không thức thời, không nhanh chóng mở cửa canh tân. Và do đó,
đã để mất nước. Tôi cho rằng chúng ta mất nước trước khi kịp canh tân. Nhật Bản
mở cửa canh tân khi Minh trị thiên hoàng nắm quyền bính năm 1868. Lúc đó và ba
thập niên sau đó nước Nhật hoàn toàn yên ổn để tiếp tục canh tân, và không bị
mất một tấc đất nào. Năm đó chúng ta đã mất 1/3 đất nước. Nếu Nhật Bản có
Fukuzawa, chúng ta cũng có Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ….Ngay cả
Cao Bá Quát, sau chuyến đi Tân Gia Ba về, trực tiếp thấy được những tiến bộ của
văn minh mới, đã không thể ngồi im, can gián không được, phải làm loạn để bị
chém đầu. Không khác gì trường hợp của Shôin ở Nhật, trước khi Minh trị Thiên
hoàng lên ngôi. Những con người Việt Nam yêu nước, hiểu biết và muốn canh cải
đất nước như thế không ít, nhưng dù họ có muốn, triều đình có muốn, có còn kịp
nữa không, và liệu người Pháp có chịu ngồi yên nhìn triều đình và sĩ phu yêu
nước Việt Nam canh tân đất nước hay không?
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có vị trí địa lý, văn hóa
và lịch sử đặc thù. Chúng ta không thể bỏ qua những nét đặc thù này trong việc
xét định tư tưởng và chính sách chính trị của mỗi quốc gia dân tộc, cũng như
trong việc lựa chọn tư tưởng và chính sách chính trị cho quốc gia dân tộc mình.
Đoàn
Viết Hoạt
(28/3/2014)
(28/3/2014)
No comments:
Post a Comment