NHỮNG MẢNH HỒN HÀ NỘI ĐANG BỊ ĐẬP NÁT
https://www.facebook.com/kesiviet/posts/1860494090818629
(TUỲ BÚT VỀ HÀ NỘI NHỮNG NĂM THÁNG BUỒN)
1. Thủ đô của bất cứ nước nào cũng là nơi
hội tụ tinh hoa cả nước, cũng là nơi đón nhận được nhiều nhất tinh hoa thế giới.
Những tài trí từ mọi miền đất nước được tuyển dụng về kinh kì lo việc dân việc
nước. Những tài hoa dân gian từ khắp đất nước cũng tự tìm về kinh kì đua tài,
khoe sắc.
Những thị
dân ba mươi sáu phố phường kinh kì Hà Nội, dù áo gấm làm quan ra vào cổng Cửa Bắc,
Cửa Đông thành cổ Cột Cờ, dù áo lụa ngồi bán sạp hàng ở Hàng Buồm, Mã Mây, dù
thợ giỏi làm nghề tinh ở Hàng Bạc, Hàng Bông, dù áo the sĩ tử ở Văn Miếu Quốc Tử
Giám hay áo nâu thợ thuyền lam lũ ở bến Phà Đen, ở bãi Phúc Xá, từ thế hệ này
sang thế hệ khác qua các triều đại Lý – Trần – Lê, bằng lao động, tài năng và
tâm hồn tinh tế hào hoa lịch lãm đã làm nên hình hài, vóc dáng kinh kì, đã thổi
vào Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội cái hồn của những lớp người đã tạo ra nền văn
hiến Việt Nam.
Nhưng từ
1954, Hà Nội cùng các đô thị cả miền Bắc bị công nông hoá. Những áo lính mũ
nan, áo ka ki đại cán bốn túi xuất thân bần cố nông của giai cấp công nông,
thành phần lãnh đạo cách mạng vô sản từ rừng xanh núi đỏ, từ đất nghèo cày lên
sỏi đá về làm chủ Hà Nội, thay máu Hà Nội, thay hồn Hà Nội.
Từ đó những
thị dân làm nên hồn Hà Nội, mang hồn Hà Nội hầu hết đều không có thành phần
giai cấp công nông lãnh đạo cách mạng vô sản, đều không thể ở, không được ở
kinh kì Hà Nội. Phải lên rừng xanh núi đỏ, phải đến nơi đất cày lên sỏi đá khai
hoang, làm kinh tế mới. Phá rừng làm ruộng. Bạt núi làm nương. Phải ra vùng mỏ
Đông Bắc cuốc than. Phải đi thanh niên xung phong “Nơi nào đảng cần, thanh niên
có. Việc gì khó, có thanh niên”
Từ đó thị
dân Hà Nội mang hồn Hà Nội tản mác khắp nước, tản mác khắp thế giới. Hai đợt hồn
Hà Nội trôi dạt lớn nhất là sau năm 1954 và sau năm 1975.
Sau năm
1954, thị dân Hà Nội phải ào ạt lên rừng. “Rừng ơi! ta đã về đây, mang sức của
đôi tay, lao động khó khăn không quản ngại”. Bài hát Bài Ca Người Thợ Rừng của
ông nhạc sĩ Phạm Tuyên ra đời từ đó. Ông nhạc sĩ thị dân Phạm Tuyên, con quan
thượng thư Phạm Quỳnh, trí thức lớn, đỉnh cao tinh hoa Việt Nam bị chính quyền
công nông giết ngay ngày đầu cách mạng vô sản cướp được chính quyền nhưng ông
nhạc sĩ vẫn hơn hớn cần mẫn, hăng hái, thành tâm tụng ca nhanh nhảu nhất, tưng
bừng nhất từng cái đụng tay, đụng chân của đảng công nông.
Sau năm
1954, trai gái thị dân Hà Nội phải vô sản hoá trong vôi vữa, gạch đá, lấm lem,
bụi bặm ở công trường mỏ đá Trái Hút, Yên Bái, ở công trường khôi phục đường sắt
Hà Nội – Lào Cai, ở công trường xây dựng nhà máy gang thép Thái Nguyên, ở công
trường xây dựng nhà máy Cao su, Xà phòng, Thuốc lá, Thượng Đình, Hà Nội. Tiểu
thuyết Vào Đời của nhà văn Hà Minh Tuân ra đởi từ đó.
Nhà văn Hà
Minh Tuân dù là chính uỷ trung đoàn Thủ Đô nhưng là thị dân Hà Nội. Tiểu thuyết
của nhà văn thị dân viết về lớp thị dân vào đời vô sản hoá bị xét nét từng chữ.
Trai gái thị dân Hà Nội vào đời trong bụi bặm công trường vô sản hoá để hoà nhập
với cuộc sống công nông, để được có mặt trong cuộc đời. Tiểu thuyết Vào Đời lại
vô tăm tích hoá, ngục tù hoá chính cuộc đời nhà văn thị dân. Tiểu thuyết Vào Đời
bị Tố Hữu, quản giáo của văn nghệ sĩ nặng lời phê phán. Nhà văn Hà Minh Tuân bị
treo bút và bị giam cầm không án suốt cuộc đời ngay tại căn nhà ở chật chội như
phòng giam nhà tù.
Sau năm
1975, thị dân Hà Nội lặng lẽ nhưng náo nức chen chúc trong những toa tàu chợ ì ạch
trên đường sắt xuyên Việt dạt vào phía Nam, mong được hít thở chút ít không khí
dân chủ tự do còn sót lại của xã hội tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hoà và hối hả
tìm đường ra biển trên những con thuyền mỏng manh di tản lao ra bão táp biển
Đông, phiêu bạt khắp thế giới tìm cuộc sống tự do dân chủ.
Thị dân Hà
Nội lên núi phá rừng khai hoang để lại cho âm nhạc ca khúc Bài Ca Người Thợ Rừng.
Thị dân Hà Nội vào công trường vô sản hoá cuộc đời, vô sản hoá cả nhân cách để
lại cho văn chương tiểu thuyết Vào Đời. Thị dân Hà Nội và thị dân cả nước chồng
chất trên những con thuyền mỏng manh lao ra bão táp biển Đông tìm giá trị làm
người, tìm tự do để lại cho ngôn ngữ thế giới một từ ngữ mới: Boat People, Thuyền
Nhân.
2. Nhiều đời gắn bó với kinh kì Hà Nội
nay bỏ Hà Nội ra đi, thị dân Hà Nội mang theo hồn cùa từng viên gạch lát vỉa hè
Hồ Gươm. Mang theo hồn vòm sấu quanh năm um tùm xanh tốt trên con đường chạy
ngang qua cổng Cửa Bắc thành cổ Hà Nội. Mang theo hồn màn sương mù huyền thoại
bảng lảng mỗi sớm mùa thu trên Hồ Tây, mỗi trưa mùa đông trên phố cổ dốc Hàng
Than, mỗi chiều mùa xuân trên vòm xà cừ phố Tây Hoàng Diệu. Mang theo hồn những
cái tên Hàng Cỏ, Hàng Đẫy, Nghi Tàm, Quảng Bá chỉ thầm nhắc đến trong tâm tưởng
cũng rưng rưng xao xuyến. Mang theo hồn mái ngói rêu phong phố cổ mang theo hồn
cả những toà nhà kiến trúc Pháp hai tầng, ba tầng tĩnh lặng dưới vòm cây, tạo
nên nét đẹp cổ điển mà duyên dáng hiện đại của Hà Nội.
Nhiều đời
gắn bó với nương rẫy và cày cuốc, lớp người bần cố nông từ rừng xanh núi đỏ, từ
đất cày lên sỏi đá về làm chủ Hà Nội nhưng vẫn mang hồn núi rừng, mang hồn mảnh
đất sỏi đá. Hà Nội chỉ là nơi cho họ sự đổi đời. Rừng núi là vùng kinh tế mới của
thị dân Hà Nội thì Hà Nội lại là vùng kinh tế mới của những bần cố nông bỗng được
làm chủ Hà Nội.
Không có hồn
của núi rừng, những thị dân Hà Nội làm kinh tế mới ở núi rừng chỉ biết tàn phá
núi rừng để khai thác triệt để lợi ích tức thì từ đất, từ rừng. Những thị dân
Hà Nội ứng xử với núi rừng ở vùng kinh tế mới như thế nào thì những bần cố nông
làm chủ Hà Nội cũng ứng xử với Hà Nội như vậy.
Ứng xử với
đất kinh kì Hà Nội như ứng xử với đất rừng, đất ruộng sỏi đá, những cốt cán
công nông làm chủ Hà Nội liền xây ngôi mộ đồ sộ của người khai sinh ra nhà nước
công nông lù lù ngay giữa phố phường kinh kì “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”.
Đánh đuổi
giặc Nam Hán ra khỏi bờ cõi, chấm dứt ách nô lệ Bắc thuộc ngàn năm, hào kiệt
Ngô Quyền xứ Đoài trung du được tôn lên ngôi vua. Ngự ngai vàng đế vương ở kinh
kì Hoa Lư, Ninh Bình nhưng khi về Trời, nhà vua Ngô Quyền, người có công lớn nhất
trong lịch sử dựng nước Đại Việt lại về với bóng duối làng Đường Lâm, lại về với
đất đồi trung du, lại về với lòng dân Xứ Đoài.
Các vua triều
Trần ba lần thắng cái ác Nguyên Mông. Cái ác Nguyên Mông bao trùm cả hai lục địa,
nô dịch cả hai lục địa Á – Âu nhưng không nô dịch được dân tộc Việt Nam bé nhỏ.
Có công với nước, với dân, với lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới lớn như vậy
nhưng khi các vua nhà Trần về Trời, có vua về với cỏ cây quê nhà, làng Tức Mạc,
phủ Thiên Trường xứ Nam Hạ, có vua về với mây trời núi cao Yên Tử. Không vua
nào chiếm một mẩu đất kinh kì làm mộ táng vua, làm đất riêng của dòng tộc vua.
Có chí lớn
và công to, hăm hở, bền bỉ và quả cảm mở cõi về phương Nam, dựng lên hình hài,
vóc dáng đất nước Việt Nam dằng dặc một dải từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến bãi
cát biển Hà Tiên, Phú Quốc nhưng các vua triều Nguyễn mở cõi khi về Trời đều về
với mảnh đất hoang sơ xa ngái thượng nguồn sông Hương, về với những mỏm núi
bình dị khuất nẻo lô xô chân dãy Trường Sơn, xa kinh kì Huế, không tốn một thước
đất vàng, đất bạc kinh kì.
Còn những
cốt cán nông dân làm chủ kinh kì Hà Nội đã giành cả vùng đất vàng, đất kim
cương mênh mông Tây hoàng thành Thăng Long làm nghĩa trang xây ngôi mộ lãnh tụ
công nông.
3. Ứng xử với đất lịch sử, đất thần linh
kinh kì Hà Nội như ứng xử với đất đồng, đất bãi, đất lúa, đất ngô ở làng quê,
những cốt cán công nông làm chủ Hà Nội xây xong ngôi mộ đá cho lãnh tụ công
nông giữa phố phường kinh kì Hà Nội, lại hăm hở xây tiếp toà nhà bảo tàng của
lãnh tụ công nông liền kề ngôi mộ đá.
Để có đất
xây bảo tàng trưng bày đôi dép cao su của lãnh tụ công nông, những cốt cán công
nông làm chủ Hà Nội nhưng không có hồn kinh kì Hà Nội liền quyết định đập bỏ
chùa Một Cột. Với họ, ngôi chùa nhỏ xíu, nhỏ hơn cả cái đình làng thì đưa về
làng quê và làng quê nào cũng sẵn đất xây lại ngôi chùa nhỏ xíu đó.
Mang triết
lí nhà Phật, con người hoà thuận với thiên nhiên, ngôi chùa như một phần của
thiên nhiên, như một đài sen soi bóng xuống mặt nước và mái ngói đỏ thấp thoáng
trong cây xanh như ngọn lửa cuộc sống bập bùng bền bỉ trong thời gian vô cùng
vô tận. Mang triết lí sâu thẳm và bao dung nhà Phật, mang hồn nước Đại Việt, vị
trí chùa Một Cột phải trên đất kinh kì. Hình hài chùa Một Cột nhỏ nhắn, đơn sơ,
khiêm nhường như tính cách, như cuộc sống những vua nhà Lý sùng đạo Phật nhưng
tầm vóc chùa Một Cột không hề nhỏ và ngôi chùa của một vương triều, một thời đại
rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam không thể đưa về nơi xó xỉnh làng quê khuất
nẻo.
Vua nhà Lý
dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về định đô ở Thăng Long năm 1010 thì chỉ ít năm
sau, đời sống ở kinh đô mới Thăng Long đã đi vào ổn định, nề nếp, đích thân vua
nhà Lý sùng đạo Phật đi dạo khắp kinh kì chọn đất dựng chùa. Lúc đó đất Thăng
Long còn loi thoi, rời rạc giữa lênh láng hồ lớn, hồ nhỏ, giữa dào dạt sông
ngòi chi lưu sông Hồng. Với chủ định chùa phải ở hướng Tây hoàng thành Thăng
Long, hướng nhà vua thường ngước lên Thần Tản Viên trên đỉnh Ba Vĩ, vua đã chọn
đất thôn Thanh Bảo, phủ Quảng Đức, xây ngôi chùa Diên Hựu mà dân gian vẫn gọi
nôm na là chùa Môt Cột giữa rừng cây xanh.
Thợ ngoã,
thợ mộc giỏi từ xứ Đông, xứ Bắc, xứ Đoài, xứ Nam Hạ được tuyển về kinh xây
chùa. Nhờ vậy ngôi chùa xây xong năm 1049 vừa nền nã, tinh tế mang nét tài hoa
dân gian, vừa uyển chuyển, hài hoà với thiên nhiên, vừa tĩnh lặng, thâm trầm
sâu thẳm trong cõi từ bi nhà Phật. Chùa xây lại ở nơi khác làm sao có được hồn
lịch sử thời hình thành kinh đô Thăng Long, làm sao có được hồn của những thợ
giỏi, những tinh hoa nước Việt.
Quyết định
đập phá chùa Một Cột để xây bảo tàng trưng bày đôi dép cao su của lãnh tụ công
nông làm bàng hoàng không chỉ những thị dân mang hồn Hà Nội mà còn gây sôi sục
bất yên trong lòng người dân cả nước. Làn sóng mạnh mẽ lên tiếng đòi giữ lại
ngôi chùa do vua Lý dựng lên ở mảnh đất vua Lý chọn.
Tiếng nói
điềm tĩnh, bền bỉ và lí lẽ thuyết phục nhất giữ lại chùa Một Cột ở mảnh đất vua
Lý chọn là tiếng nói của một người lính thị dân Hà Nội khi đó mang hàm thượng
tá, thượng tá Phạm Quế Dương nhà ở cạnh thành cổ Cột Cờ. Người lính thị dân Hà
Nội Phạm Quế Dương đôn đáo mang kiến nghị không đập phá chùa Một Cột có chữ kí
của hàng ngàn mảnh hồn Hà Nội trên khắp đất nước và hàng trăm trí thức đang sống
ở Hà Nội đến uỷ Nhân dân thành phố Hà Nội, đến hội Khoa học Lịch sử, đến văn
phòng Quốc hội, văn phòng Chính phủ, đến các toà báo và đến nhiều vị có vai vế
trong đảng và nhà nước. Nhờ vậy chùa Một Cột mới được giữ lại ở vị trí của chùa
từ ngàn năm trước đến muôn đời sau.
4. Hồn kinh kì Hà Nội hiển hiện rõ nhất ở
những đặc trưng kinh kì Hà Nội, chỉ kinh kì Hà Nội mới có. Hơi may se lạnh cuối
thu thì cả nước đều có, cả miền Bắc đều nhận ra rất rõ hơi may. Nhưng chỉ hơi
may se lạnh cuối thu Hà Nội mới gợi cảm, bâng khuâng đến xao xác trong lòng người
Hà Nội. Chỉ Hà Nội mới có cả toà thành, cả dãy tường thành thấm màu thời gian,
mới có cả dãy phố san sát những mái ngói rêu phong mang tinh hoa kiến trúc truyền
thống Việt Nam và mới có những phố dài thấp thoáng những toà nhà xinh xắn, những
villa duyên dáng dưới vòm cây xanh mang tinh hoa kiến trúc Pháp tinh tế và lịch
lãm, mang cả bóng dáng thời lịch sử buổi đầu xã hội Việt Nam ngập ngừng, bối rối
và cả đau đớn bước vào văn minh đô thị, văn minh công nghiệp. Chỉ người mang hồn
Hà Nội mới nhận ra hồn kinh kì ở những hàng cây trên phố Hà Nội, tán cây lao
xao cơn gió hiện tại mà hàng cây nối dài chìm vào màn sương bảng lảng như chìm
sâu hút vào quá vãng lịch sử xa xưa.
Những cốt
cán công nông làm chủ Hà Nội dù có bằng cấp kiến trúc sư, có học vị, học hàm tiến
sĩ, giáo sư nhưng không có hồn Hà Nội đã thản nhiên kí lệnh cho công ty công
viên cây xanh Hà Nội hạ gục 6700 cây xanh mang hồn Hà Nội, mang cả một phần lịch
sử Hà Nội đang bám rễ sâu trong đất cổ Hà Nội, đang tạo bóng mát cho cuộc sống
Hà Nội và tạo ra cả khoảng tĩnh lặng, khoảng sâu lắng trong hồn người Hà Nội.
Chặt hàng
cây mang một phần lịch sử Hà Nội, những cốt cán công nông làm chủ Hà Nội còn âm
thầm và hối hả đập phá những ngôi nhà cổ mang thẩm mĩ kiến trúc cổ điển Việt
Nam xây lên bằng vật liệu truyền thống, bằng bàn tay khéo và thẩm mĩ dân gian
Việt Nam. Đập phá những toà nhà mang đậm nét đẹp kiến trúc Pháp, ghi dấu ấn lịch
sử thời xã hội Việt Nam theo chân các nước công nghiệp châu Âu, chập chững bước
vào văn minh đô thị.
Không đập
bỏ được chùa Một Cột ở mảnh đất phía Tây hoàng thành Thăng Long lấy đất xây bảo
tàng trưng bày đôi dép cao su của lãnh tụ công công vì để tuyên truyền cho ý
nghĩa và giá trị văn hoá, tinh thần lớn lao của bảo tàng, chủ đầu tư đã công
khai với dư luận nguồn đất xây bảo tàng. Rút kinh nghiệm, nay những người làm
giầu từ đất, mang đất công ra kinh doanh, ăn chênh lệch tiền tỉ từ việc biến đất
công trình cổ thành đất thương mại cứ lặng lẽ quây kín công trình cổ lại, gấp
gáp đập phá từ bên trong. Đến khi phá toang ra ngoài, dư luận xã hội biết, rầm
rộ lên tiếng thì sự đã rồi.
Quần thể
kiến trúc chạy dài bốn mặt phố Nguyễn Thái Học, Lê Trực, Trần Phú, Hùng Vương cận
kề cạnh Tây Nam hoàng thành Thăng Long được định tên là toà nhà 61 Trần Phú
mang nét đẹp kiến trúc cổ điển Pháp được người Pháp xây đầu thế kỉ 20. Có tuổi
đời cả trăm năm nhưng mái ngói vẫn đều tăm tắp, không một gợn xô lệch. Tường dầy
bụi thời gian nhưng vẫn phẳng phiu, không một vết tróc, lở. Những góc cạnh, đường
thẳng, đường lượn, hoạ tiết trên tường vẫn sắc nét, vẫn nguyên vẹn sự tinh tế,
tài hoa, lịch lãm do những nghệ sĩ kiến trúc Pháp và bàn tay khéo người thợ Việt
tạo ra. Dãy nhà dài nhưng không hề thấy bóng dáng của ngôi nhà chung chạ, công
cộng, bình dân, vẫn mang phong cách biệt thự quí tộc Pháp.
Quần thể
kiến trúc Pháp 61 Trần Phú nằm trong mạch những biệt thự, những villa tạo ra những
dãy phố vừa cổ kính, vừa hiện đại Nguyễn Thái Học, Tràng Thi, Tràng Tiền, Lê Hồng
Phong, Trần Phú, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng . . . hình thành bộ mặt mới của thủ
đô Hà Nội bên cạnh những phố cổ kẻ chợ, tạo nên vóc dáng thủ đô Hà Nội đầu thế
kỉ 20.
Quần thể
kiến trúc 61 Trần Phú như một nốt nhạc trong bản giao hưởng kiến trúc thủ đô Hà
Nội mà những kiến trúc sư tài hoa người Pháp là những nhà soạn nhạc viết ra bản
giao hưởng đó. Bỏ đi một nốt nhạc là làm mất đi một giai điệu đẹp, mất đi một
nhịp điệu, tiết tấu say đắm của bản giao hưởng.
Quần thể
kiến trúc 61 Trần Phú Hà Nội bị đóng kín cửa, đập phá từ bên trong, từ nền tảng.
Đến khi mái ngói trên cao bị dỡ trống trơ, phơi bộ xương rui mè tênh hênh giữa
trời, dư luận xã hội mới giật mình, sửng sốt kêu lên.
Trước nỗi
đau mất mát của những mảnh hồn Hà Nội, Bí thư thành uỷ Hà Nội phải lệnh dừng đập
phá thì bộ Xây dựng, nơi quản lí những công trình xây dựng nhưng chỉ biết giá
trị đất công trình, không cần biết giá trị công trình, nơi kí lệnh cho phép
mang đất công trình ra kinh doanh, biến đất công trình cổ thành đất thương mại
liền lên tiếng nói lấy được bảo vệ việc phá bỏ chiều sâu lịch sử và nét đẹp kiến
trúc hài hoà Pháp Việt của không gian kinh kì Hà Nội, bảo vệ thứ kiến trúc trọc
phú hoá, dung tục hoá, chợ búa hoá những công trình mọc lên ở Hà Nội thời kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ việc đã rồi: Toà nhà 61 Trần
Phú không có giá trị văn hoá và lịch sử!
Với những
người đang làm chủ Hà Nội, coi Hà Nội chỉ là vùng kinh tế mới, nhìn Hà Nội bằng
con mắt cuả nhóm lợi ích, chỉ biết lợi ích chính trị để tiến thân và lợi ích
kinh tế để làm giầu, đến chùa Một Cột còn đáng bị phá thì chả nơi nào ở Hà Nội
có giá trị văn hoá và lịch sử cả. Và những mảnh hồn kinh kì Hà Nội cứ lần lượt
bị tàn phá! Như thị dân Hà Nội lên rừng làm kinh tế mới tàn phá hồn rừng, hồn
núi vậy.
https://www.facebook.com/photo?fbid=1860492664152105&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo?fbid=1860492927485412&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo?fbid=1860493317485373&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo?fbid=1860493730818665&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo?fbid=1860493924151979&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860494067485298&set=pcb.1860494090818629
.
.
Ông P Đ Trọng quên ko nói đến bài “Lên miền Tây “ của Bùi
minh Quốc đã cổ vũ cả thế hệ thanh niên nhất là TN Hà nội đi khai phá miền tây
mà nhiều người ko về HN được và trở thành người miền tây bắc . Sau này lại có
những thế hệ lãnh đạo HN đã góp công ko nhỏ trong việc tàn phá này :H v Nghiên
,Ng thế Thảo ,Ng đ Chung ...
.
Tàn phá vật chất, sao o kể đến sông Tô lịch êm đềm chảy từ Bắc xuống Nam đã bị bức
tử. Sao o kể bức tử húng Láng, hoa đào Nhật Tân. Sao o kể đến cái hồn HN trong
mỗi ng HN. Đi nhẹ, nói khẽ , cười tươi. Có ai tốc váy chửi nhau o? Còn đâu cái
cảnh các nữ sinh áo dài cười rực rỡ khi tan trường. HN Có nhà thương làm phúc để
chữa cho người nghèo. Bây giờ có cấp cứu mà o đóng tiền thì hãy đợi đấy nhé.
Nhiều lắm. Có vứt cả cái phố Trần Phú, Điện biên phủ có biệt thự đẹp mà giữ được
cốt cách ăn ở nhân hậu với nhau thì cũng tốt rồi
No comments:
Post a Comment