Về “đế
quốc Mỹ” của Niall Ferguson
Trần Hữu Dũng
Diển Đàn 141
Tháng 6/2004
http://www.viet-studies.net/THDung/DocFerguson.htm
*Niall Ferguson, Colossus – The Price of America’s Empire, NY:
Penguin Press, 2004, 385 trang, 25.95 USD
Niall Ferguson là một sử gia trẻ (sinh năm
1964) người Anh, hiện dạy ở New York, viết hăng và dễ hiểu (gần như mỗi vài tuần
là có một bài khá dài trên các tạp chí Anh Mỹ). Ông chuyên về các vấn đề
tài chính quốc tế và đế quốc, có khuynh hướng tân bảo thủ. Tháng tư vừa
qua, tuần báo Time của Mỹ bình chọn Ferguson là một trong 100 nhân vật nhiều ảnh
hưởng nhất thế giới hiện nay.
Bố cục cuốn sách vừa xuất bản của ông (“Người
khổng lồ -- Cái giá của đế quốc Mỹ”[1]) không chặc chẽ cho lắm (vì phần
lớn quyển này là gán ghép những bài báo ông đã đăng trong hai năm qua), nhiều
chi tiết dư thừa, nhưng chung quy có ba luận điểm chính. Thứ nhất,
Ferguson ca tụng chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Anh. Thứ hai,
ông cho là lịch sử nước Mỹ là lịch sử của một đế quốc, dù đa số dân Mỹ không nhận
điều đó. Và thứ ba, vì thể chế nước Mỹ và bản tính người Mỹ,
đế quốc này sẽ không tồn tại lâu.
I. Ưu điểm của
đế quốc
Như trong cuốn “best-seller” năm 2003 của ông
về đế quốc Anh,[2] trong quyển này Ferguson hưng phấn
ca tụng chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Anh nói riêng. Ông nhấn mạnh hai
điều. Một là, nhiều quốc gia sau khi được độc lập thì lại hỗn loạn, nghèo
khổ hơn lúc còn là thuộc địa. Đa số rơi vào chế độ độc tài tham nhũng thối
nát, nội chiến, tàn sát chủng tộc, giặc giã liên miên với láng giềng.
Hai là, không chỉ biện hộ cho đế quốc như
một “mission civilisatrice” (dù Ferguson không dùng cụm từ này) của thực
dân thế kỉ 19, ông đi xa hơn, biện hộ cho đế quốc trên căn bản “toàn cầu hoá”
thời thượng ngày nay. Theo Ferguson, muốn thực hiện lợi ích của toàn cầu
hoá thì ngoài tự do thương mại, tự do đầu tư xuyên quốc gia, truyền giao công
nghệ... mọi quốc gia còn cần có chung một khung thể chế hoàn chỉnh, trật
tự, tôn trọng luật pháp, và một bộ máy hành chính trong sạch, có khả năng, . Và
chính trong khâu này mà nhiều quốc gia cần nương nhờ một chế độ “đế quốc phóng
khoáng” (liberal imperialism).[3]
II. Mỹ đã là đế quốc
Theo Ferguson (và nhiều tác giả khác) “đế quốc
Mỹ” không phải là chưa có hoặc mới có. Ngay từ thuở lập quốc, xuyên qua
thế kỉ 19 (khi mà Mỹ chiếm đóng các đảo giữa Thái Bình Dương), cho đến ngày
nay, thì Mỹ đã cư xử như một đế quốc rồi. Ferguson gọi chính sách Mỹ là “chủ
nghĩa đế quốc của chủ nghĩa chống đế quốc (“imperialism of anti-imperialism”).
Mỹ đã là một đế quốc song, theo Ferguson, lại
không dám tự nhận. Đại đa số dân Mỹ vẫn nghĩ rằng nước Mỹ là hiện thân của
một quốc gia sinh ra từ một cuộc đấu tranh chống thực dân dành độc lập.
Trong tâm tưởng dân Mỹ, “đế quốc” (hiểu là thực dân) là một nước đem quân chiếm
đóng nước khác vì tài nguyên của nước ấy. Hiểu như vậy thì, theo họ,
Mỹ không phải là đế quốc/thực dân. Vì không tự nhận là một đế quốc, nước
Mỹ, theo Ferguson, đã không làm tròn “trách nhiệm” chính trị và đạo đức của một
đế quốc.
III. Đế quốc Mỹ sẽ
đi xuống
Theo Ferguson, Mỹ bị ba “thâm hụt: (1)
thâm hụt kinh tế (2) thâm hụt con người, (3) và thâm hụt kiên nhẫn.
Về kinh tế, Fergson đưa ra những con số mà hầu
như ai cũng biết: Mỹ nhập nhiều hơn xuất, về hàng hoá cũng như vốn. Song
cái thâm hụt kinh tế đáng báo động nhất là về bảo hiểm xã hội (đặc biệt là hệ
thống hưu bổng cho người lớn tuổi):[4] với tỉ số người về hưu ngày càng cao
so với dân số làm việc, hầu hết các nhà kinh tế đều tiên đoán rằng chỉ trong
vòng 20-30 năm nữa thì ngân quỹ hưu bổng của chính phủ Mỹ sẽ cạn kiệt. Chẳng
những chính quyền Mỹ hiện không có biện pháp nào để đối phó với cuộc khủng hoảng
này, những tổn phí quân sự của Mỹ càng đem lại gần hơn ngày khủng hoảng ấy.
Về nhân lực, theo Ferguson, Mỹ có một thâm hụt:
ít người Mỹ nào muốn sống lâu dài ở các nước thuộc địa. Ferguson nhận
xét: (1) trái với Anh ngày xưa, số người muốn vào Mỹ là nhiều hơn số người muốn
rời Mỹ, (2) những người muốn rời Mỹ thì chỉ thích sang các nước đã phát triển, (3)
trái với các đế quốc ngày xưa, Mỹ không muốn gởi quân đến đóng tại các nước thuộc
đia, (4) khi người Mỹ sang nước khác thì họ không ở lâu và không hoà nhập với
dân địa phương, và (5), quan trọng nhất, đa số giới “ưu tú” (elite) của Mỹ
không muốn sống ở nước khác, nhất là ở các nước kém phát triển .
Về thâm hụt kiên nhẫn, Ferguson cho rằng Mỹ
không có khả năng có đế quốc (thành công) như Anh vì bản tính dân Mỹ thiếu kiên
nhẫn, muốn có kết quả ngay, và hiến pháp Mỹ lại cho phép họ thay đổi tổng thống
mỗi bốn năm. Không một tổng thống Mỹ nào có thể có kế hoạch lâu hơn bốn
năm.
IV. Phê bình
Nếu Ferguson không thú nhận ngay từ đầu rằng
ông là “fan” của đế quốc thì một vài dữ kiện ông nêu ra cũng đáng làm suy nghĩ.
Tiếc thay, cuốn sách của Niall Ferguson cơ bản là một bài bình luận thiếu khoa
học, đưa ra những ý kiến chủ quan, dựa vào những dữ kiện lọc lựa để biện luận
cho ý kiến mà tác giả đã có trước khi viết. Chẳng hạn như khi ông kê ra
những “thất bại”, những bước lùi của một số quốc gia sau khi giành độc lập, rồi
kết luận rằng làm thuộc địa là tốt cho các nước này hơn. Hoặc khi ông viết
rằng đế quốc sẽ tạo những thể chế cần thiết cho toàn cầu hóa. Về phương
diện thuần lý thuyết, đây không phải là một giả thuyết không đáng chú ý (xem
Dani Rodrik[5] chằng hạn), song phải khách quan so
sánh nó với những học thuyết khác về vai trò thể chế trong toàn cầu hoá, không
thể chủ quan dựa vào nó để biện hộ, hay bài bác, chế độ đế quốc bất luận của nước
nào.
Là một sử gia chuyên nghiệp, Ferguson lắm lúc
ngây thơ, dễ tin một cách không ngờ. Chẳng hạn ông cho rằng Mỹ đóng quân ở
Saudi Arabia chỉ là để phòng thủ nước này chống lại Iraq, như các tổng thống Mỹ
cho biết qua các bài diễn văn của họ. Ferguson cũng có vẻ không biết gì về những
tranh cãi trong nội bộ chính quyền Bush, dù chỉ trong vấn đề Iraq, mà mọi người
đều biết qua những tiết lộ gần đây của Richard Clarke,[6] Bob Woodward,[7] và nhất là James Mann[8].
Trong những lí do mà Ferguson đưa ra để biện hộ
cho đế quốc Mỹ, ông quên rằng chính thái độ của dân Mỹ cũng là quan trọng.
Có thể ông gọi đó (một cách lấy làm tiếc) là hội chứng “thâm hụt kiên nhẫn”, và
rằng dân Mỹ đã không dám nhận rằng nước họ là một đế quốc. Nhưng hai điều
này có liên hệ với nhau: có thể là khi dân Mỹ phát giác nước họ là một đế quốc
thì cũng chính là lúc họ kêu gọi phải chấm dứt chính sách đó.
Những người như Ferguson, nhìn chế độ đế quốc
từ quan điểm của người dân một đế quốc (hơn nữa lại là một đế quốc trong quá khứ
xa xăm), không hiểu nổi cái vô luân tàn bạo của đế quốc đối với dân tộc bị trị.
“Đế quốc” của Ferguson không có người cai trị chà đạp nhân phẩm của người bị trị.
Chính trong cách Ferguson tiên đoán sự thất bại của đế quốc Mỹ cũng thể hiện
thái độ “đế quốc” của ông: Mỹ sẽ thất bại không phải vì sự đối kháng của các
dân tộc bị trị mà chính vì dân Mỹ thiếu kiên nhẫn!
Cũng nên nói thêm rằng, vài tuần gần đây (sau
khi cuốn sách này đã xuất bản) thì Niall Ferguson đã đăng nhiều bài bình luận
nhấn mạnh đến sự cần thiết của “hợp tác quốc tế” , và tỏ vẻ lo ngại là chính
sách đế quốc của Mỹ hiện nay thiếu tính “chính đáng” (legitimacy).[9] Nói khác đi, hình như ông chợt
nhận ra rằng, “chủ nghĩa đế quốc”, xưa cũng như nay, rốt cuộc chỉ là sự thống
trị của kẻ mạnh, và các dân tộc bị trị chắc chắn sẽ có ngày đứng lên phá vỡ nó.
Trần Hữu Dũng
18-5-2004
[1]Một chi tiết khá thú vị là cuốn này được xuất bản ở Anh với tựa “The
Rise and Fall of the American Empire” (Sự thăng trầm của đế quốc Mỹ)
[2]Niall Ferguson, 2003, The Rise and Demise of the British World
Order and the Lessons for Global Power, NY: Basic Books.
[3]Về ý niệm “đế quốc phóng khoáng” xin xem Trần Hữu Dũng, “Mỹ, một đế quốc?”,
trên Thời Đại Mới, số 2, tháng 7/2004.
[4]Nói cho đúng, nhà kinh tế Lawrence Kotlikoff mới là chuyên gia
báo động gánh nặng bảo hiểm xã hội ở Mỹ, Ferguson chỉ ghép những phân tích của
Kotlikoff vào thuyết về đế quốc. Xem Niall Ferguson và Lawrence Kotlikoff,
“Going Critical: American Power and the Consequences of Fiscal
Overstretch,” National Interest¸73, Fall 2003, tr. 22-32
[5]Dani Rodrik, 2003, “Feasible Globalization,” bản thảo chưa xuất bản.
[6]Richard Clarke, 2004, Against All Enemies: Inside America's War
on Terror, NY: Free Press
[7]Bob Woodward, 2004, Plan of Attack, NY: Simon &
Schuster
[8]James Mann, 2004, Rise of the Vulcans: The History of Bush's
War Cabinet, NY: Viking Press
[9]Robert Kagan, nòng cốt của nhóm tân bảo thủ, cũng đã bắt đầu có những
lo âu tương tự.
No comments:
Post a Comment