Gửi
các nhà văn quốc doanh trong hội chú Thiều
Tôi
đang bận việc nhà. Rất bận. Năm hết tết đến tới nơi rồi mà vẫn chưa
đâu vào đâu. Chểnh mảng, sao nhãng cả chuyện vào căn lều phây búc chia
sẻ vui buồn cùng mọi người. Nhớ.
Vậy
nhưng hôm qua thấy các tờ nhật trình điện tử (đúng ra phải gọi là
"khắc trình" bởi chúng không đưa tin theo ngày mà theo từng
giờ từng khắc) xổ ra rằng Hội Nhà văn xứ này, ông Thiều, ông Khoa
cực chẳng đã, đã phải rút lại cái quyết định liều rất tai tiếng
bổ nhiệm một người đầy tai tiếng - Lương Ngọc An vào ghế nóng của
hội. Rút lại như thế là quá muộn, khí muộn, chả xóa được vết chàm
tự bôi lên mặt, chỉ như thứ giải pháp tình thế, nhất thời mà thôi.
Tôi
không có tư thù gì với ông An, cả với ông Thiều, ông Khoa nhưng nhân vụ
này khuyên các ông nên rút lui đi, đừng ham hố công danh ghế này ghế
nọ nữa. "Phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc
sống" kiểu như các ông từng phục vụ đã quá đủ rồi, đừng để xã
hội này, nước này vướng víu bởi các ông nữa.
Trước
khi về với mẹ đĩ cùng trồng cây nuôi gà, việc đầu tiên cần làm là
các ông tuyên bố giải tán hội nhà văn, thứ hội quốc doanh vô tích
sự, ăn chơi nhảy múa. Đó là cách các ông làm được điều tốt cuối
đời, và cũng là "nhiệt liệt hưởng ứng" chủ trương mà ông Tô
Lâm đang phát động.
Nhân
đây, tôi có đôi dòng về cái hội văn bút quốc doanh của các ông.
Người
xưa từng cẩn thận dạy đám hậu sinh, bằng cách nói hình tượng hay đáo để, rằng
“con chim trúng “đạn” (tiễn, tên) sợ làn cây cong”. Thời bây giờ, nhìn cái gì
cũng giống cánh cung. Tôi cứ tiếp thụ lời nhận xét ấy, không bổ ngang thì
bổ dọc.
Chả
là hồi khai mạc hội văn bút quốc gia được tổ chức hoành tráng ở đê La Thành
thủ đô năm xưa, quả nhân (người ít đức) là tôi đưa cái tút đụng chạm, thế là
bị mắng tới tấp, kiểu như ông có chê cả làng vũ đại thì cũng phải trừ ABC, XYZ
ra chứ. Vậy nên lần này tôi chỉ quan tâm tới mấy nhà văn quốc doanh, nhân viên
văn mậu dịch thôi, kẻo những người có mác văn sĩ tử tế lại chạnh lòng.
Nói
cho vuông, đâu phải cứ nhà văn là… xấu, như người ta vẫn rỉ tai nhau "tuy
nó đảng viên nhưng mà tốt". Tôi chơi, quen với nhiều người văn, già có
trẻ có, biết và hiểu họ, văn lẫn người, thấy họ tốt lắm. Mà ngay cả văn sĩ thi
sĩ quốc doanh vẫn không ít người tử tế đàng hoàng. Ông Nguyễn Việt Chiến thi sĩ ở thủ đô là một
ví dụ. Bác Nguyễn Duy, lão Đỗ Trung Quân, ông em Nguyễn Một, bà chị Nguyễn Thị Ngọc Hải trong Sài thành là ví
dụ nữa. Hôm trước, tôi có may mắn gặp, trò chuyện, thậm chí còn liều bá vai bá
cổ chụp ảnh chung với hai lão tướng Nguyễn
Đông Thức, Lê Văn Nghĩa,
về nhà ngẫm nghĩ mãi, sao các vị nổi tiếng tài hoa giỏi giang mà đức độ hiền
lành khiêm tốn dễ chịu thế nhỉ. Tự cấu lên trán nhủ thầm, mình mà có cái danh của
hai đấng bậc ấy lại chả một tấc đến giời.
Trên
thế giới, chẳng riêng xứ ta có hội nhà văn. Toàn cầu còn rảnh rỗi lập ra hội
văn bút quốc tế nữa là. Chỉ có điều, ở những nơi tiến bộ, văn minh dân chủ,
nó chỉ là thứ hội đoàn chuyên ngành, hội nghề nghiệp, vui thì tụ họp với nhau,
chẳng liên quan tới đường lối chính sách, chính trị chính em, chỉ đạo định hướng
này nọ. Lại càng không dính gì đến ngân sách tiền thuế do dân đóng góp, không
đòi hỏi được cấp nhà cấp xe. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Không sống
được bằng ngòi bút (bàn phím) thì hội viên tự đi nuôi ong, trồng nấm, chạy xe
uber, grab. Hội nhà văn của họ cũng chỉ na ná như hội nuôi ong, hội trồng nấm,
hội đái tháo đường, phận nào việc nấy, thế thôi. Còn đủ thứ hội, đoàn thể đang
tồn tại ở ta, vốn là con đẻ của chính quyền, sống bám vào dạng thể chế đã bị
nhiều quốc gia ném vào sọt rác lịch sử, nay chỉ còn ngắc ngoải vài nơi trước
khi bị cáo chung. Lạ là vẫn có những người tự đắc về thứ danh vị hão huyền.
Đại
hội La Thành 2020 đương nhiên thành công tốt đẹp, giống như mọi đại hội thành
công tốt đẹp ở xứ này. Một ông chủ tịch già giữ ghế chủ hội những 20 năm khi buộc
phải rút vẫn được khen ngợi là biết điều, thì thứ gì mà chả thành công. Ngay
trong sự ồn ào náo nhiệt vui vẻ của giới cầm bút, không khó nhận ra những điều
hết sức cổ hủ, chả thay đổi gì so với mấy chục năm trước.
Ông
tân chủ tịch Nguyễn Quang
Thiều dù
đã lập ngôn hứa hẹn, đặt cược lòng tin, nhưng liệu ai dám tin khi bản chất hội
không thay đổi. Vẫn là hội quốc doanh, vòng kim cô định hướng to tướng thít chặt
trên đầu. Có điều, khác với Tôn Ngộ Không bị lừa, còn các nhà văn quốc doanh tự
nguyện đội vòng, nên những thế lực đường tăng, quan âm bồ tát, phật tổ, tuyên
giáo đều hiểu rằng đâu cần niệm chú thì họ vẫn ngoan. Nhà văn ngoan, viết
ngoan, hoặc ngoan ngoãn không viết gì, thì bề trên được lợi, còn dân chúng và
xã hội chịu thiệt.
Khi
tôi có lần gọi một bộ phận người cầm bút là nhà văn quốc doanh, vài người cằn
nhằn nói thế hơi quá. Tôi vẫn cho thế là còn nhẹ. Văn nhân lâu nay được đánh
giá là tầng lớp đẳng cấp, lực lượng có bản lĩnh, khí phách, ngang tàng, dùng
ngòi bút khắc vào lịch sử. Mà cũng lạ, không hiểu ông Thưởng khi làm trưởng
ban tuyên giáo tuổi gì lại dám đến chỉ đạo, khuyên bảo các bậc đàn anh đàn chị
chỉ kém ông mỗi tiêu chuẩn chức sắc.
Những
gạo cội, đấng bậc Nguyễn Khoa Điềm, Đỗ Chu, Vũ Bão (Bão Vũ), Nguyễn Việt Chiến,
Trần Đăng Khoa, Sương Nguyệt Minh, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Bảo
Ninh, Nguyễn Hiếu… không phải thứ đối tượng cần được giác ngộ, cầm tay chỉ việc.
Họ đã vượt trên, thoát ra ngoài tầm mậu dịch viên văn chương từ lâu rồi. Họ dự
đại hội bởi họ là hội viên, thế thôi. Nhẽ ra khi được bề trên phân công
“thay mặt trung ương” theo thói thường lâu nay, ông Thưởng phải biết từ chối,
dù nơi tới chỉ đạo chỉ là thứ hội quốc doanh. Giờ thì ông ấy đã chăn gà,
còn các nhà văn từng vỗ tay rào rào chắc biết mình đã quá khờ
khạo tin lời đứa trẻ con.
Ngó
cảnh đám đông họp chợ khi “cấp trên” đang đăng đàn, túm năm tụm ba chuyện
riêng, cười cợt, rủ nhau tót ra ngoài, lại chợt nhớ sự trớ trêu ê chề của ông
chủ nhiệm văn phòng quốc hội Vũ Mão tại đám tang tướng Trần Độ (tháng 8.2002)
khi gia đình cụ Trần công khai tuyên bố không chấp nhận bản điếu văn do ông vừa
đọc. Tôi thương và thông cảm với ông Vũ Mão, thời ấy cơ chế nó thế, tránh không
được. Sau mấy chục năm, tưởng rút được kinh nghiệm xương máu, hóa ra các long
trọng viên vẫn u mê lề thói cũ, nhắm tịt mắt lê la vào cảnh vừa bi vừa hài.
Nói
thêm chút nữa về vụ ông trưởng ban tuyên giáo tới đại hội chỉ đạo, định hướng,
dạy dỗ nhà văn phải thế này thế khác. Nếu trung ương không bỏ được thói quen, lối
mòn, tư duy lãnh đạo về văn nghệ thế kỷ 21 vẫn giống thời Nhân văn giai phẩm,
thì nhà văn cần tỏ thái độ. Ông Thưởng hay ông gì gì đi nữa đăng đàn thuyết
giáo cho bà con nông dân hoặc mấy chú chạy xe ôm ít chữ thì cứ tạm coi hợp đi,
chứ với giới cầm bút thấy vênh quá.
Sáng
tác văn chương là thứ lao động đặc thù, không phải cứ có bằng cao cấp chính trị
là tới nói văng mạng được. Thiết nghĩ, nhà văn, dù là nhà văn quốc doanh, mậu dịch
viên văn nghệ, cần biểu hiện dứt khoát trước những long trọng viên kiểu này.
Các hội đoàn khác chả biết thế nào, chứ hội nhà văn nên có tiếng nói. Đừng để
kéo dài “cái quay búng sẵn trên trời/mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Hồi
tôi đi học, từ cấp 2 tới về sau, luôn được nghe thầy cô giáo và các nhà lý luận
văn nghệ khẳng định chắc nịch “nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”,
“nhà văn là người chép sử bằng hình tượng nghệ thuật”. Chúng tôi tin vào tín điều
ấy khi đọc những Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Tố Hữu…, rồi cả
Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu, Huy Cận… (tác phẩm của
những vị này dân chúng phải tìm và đọc lén, bởi bị chính quyền cấm một cách rất
vô duyên). Nếu họ không mô tả, không lao vào cuộc sống, thì hậu sinh, thậm chí
cả những người đương thời, sẽ chả biết cuộc sống tồn tại thế nào, thời đại đã
quằn quại đau đớn ra sao, thân phận con người là thứ gì trong thời buổi hỗn loạn.
Đọc
tác phẩm của họ, người đọc biết chắc rằng các nhà văn nhà thơ, những “thư ký
trung thành của thời đại”, những nhà “chép sử bằng hình tượng nghệ thuật” ấy đã
sống hết mình với cuộc sống đương thời. Họ là nhà văn tử tế, có trách nhiệm với
con người và cuộc đời, nhà văn đúng nghĩa. Sau này, trong cuộc chiến Bắc - Nam,
cũng vẫn có những nhà văn đúng nghĩa như vậy, tôi lấy hai vị Phạm Tiến Duật,
Nguyên Ngọc làm ví dụ.
Giờ
thì khác. Chỉ riêng hội nhà văn quốc doanh được nhà nước che chở đã hơn nghìn hội
viên. Suốt bao năm qua, xã hội nhiều biến động, đầy bi kịch. Người dân mất đất,
tan cửa nát nhà ở khắp mọi nơi, dân oan khiếu kiện, cùng quẫn, bị xô đẩy vào
“bước đường cùng” hầu như vùng nào cũng có. Phần tốt đẹp của cuộc sống thì đã
được truyền thông độc quyền của nhà nước phản ánh ca ngợi từng ngày từng giờ,
trên tất cả các kênh, và tất nhiên họ lờ đi, ỉm đi, lướt qua những mảng xám xịt,
đen tối, bi kịch.
Xã
hội gần như chỉ biết trông chờ vào sự lên tiếng từ giới văn nghệ, bằng lời nói
và tác phẩm. Và thất vọng. Điểm lại, hầu như không có tác phẩm nào về dân oan,
viết về nông dân bị cướp ruộng đất. Văn chương quốc doanh rặt màu hồng, không hề
thấy những anh Pha mới, chị Dậu mới.
Nói
đâu xa xôi chi cho mệt, 20 năm nay, gần như không mấy ai không biết chuyện
"đồng Nọc Nạn mới" ở Thủ Thiêm Sài Gòn. Người dân thấp cổ bé miệng bị
cướp đất trắng trợn, màn trời chiếu đất, nhà tan cửa nát, qua năm này năm khác.
Nỗi đau Thủ Thiêm không còn nằm trong phạm vi vùng đất, cộng đồng nhỏ, mà đã
mang tính quốc gia, toàn dân. Thậm chí thế giới cũng biết, cũng lên tiếng. Thủ
Thiêm giờ đây, dưới mắt cán bộ là khu đô thị mới, còn trong hồn dân chúng là
nỗi đau triền miên, bi kịch chồng lên bi kịch. Cả nước biết, ai cũng tỏ, chỉ
riêng nhà văn quốc doanh không biết. Thế mới quái.
Có
nhà văn nhà thơ quốc doanh nào ra tác phẩm chưa? Không hề. Thậm chí lên tiếng
vài ba câu bày tỏ thái độ cá nhân, viết mấy dòng tút trên phây búc, cũng không
hề. Tôi thành thật xin lỗi nhà văn quốc doanh nào đã có lời về các vụ Thủ
Thiêm, Đồng Tâm, Dương Nội... mà tôi chưa có dịp đọc, chỉ mong sao có sự sót
lọt vậy.
Hai
chục năm, hai thập niên ròng ròng hiện thực bi kịch đen tối, tịnh không có một
phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tiểu thuyết, bài thơ… của họ về cướp đất. Hay
là họ có quan tâm, nhưng còn thai nghén, để nếu tác phẩm có ra đời thì nó phải
hoành tráng, trường thiên, vang động đất trời, “thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ
kinh nhân” (rèn luyện trăm nghìn lần, mỗi lời làm mọi người kinh sợ), đoạt giải
Nobel… Cứ thai nghén, chửa trâu mãi như thế, dân chúng và cuộc sống biết đợi đến
bao giờ. Thứ thiếu nhất ở các mậu dịch viên văn là “mỗi câu viết ra như có máu
chảy ở đầu ngọn bút”, họ không thể có nên họ đã im lặng.
Có
người bảo, việc thế sự nóng hổi sao lại cứ đòi hỏi nhà văn lên tiếng, thế nhà
báo để làm gì. Đành rằng các nhà báo có nhiệm vụ bám trận địa hằng ngày, từng
tháng, từng năm, nhưng để lay động tâm can dân chúng, vẽ lên bức tranh xã hội một
cách đầy đủ, có chiều sâu, tạo hiệu ứng mạnh mẽ quyết liệt thì cần nhà văn.
Không lẽ nhà văn chỉ ăn theo nhà báo, chỉ ngồi trong phòng văn ngó ngắm “bức
tranh vân cẩu, (vẽ) con người tang thương”, mặc cho cuộc đời điên đảo.
Nhân
nhắc chuyện Thủ Thiêm, Đồng Tâm và nhiều vụ khác trước sự dửng dưng vô cảm
lạnh lùng của hội nhà văn quốc doanh, của phần đông hội viên mậu dịch, cũng cần
phải nói thêm, nói rõ rằng không phải nhà văn nào cũng chui vào vỏ ốc an toàn bản
thân như vậy. Có nhẽ nhiều người từng đọc loạt bài phóng sự có tên Đất Thủ
Thiêm của nhà văn Võ Đắc Danh. Là nhà văn nhưng mà tốt, tử tế.
Anh
Danh nổi tiếng với nhiều cuộc lăn xả phanh phui những vụ tham nhũng, cướp đất,
hiểu thấu nỗi đau của dân oan, của con người hiền lành lương thiện bị cướp đoạt
trắng trợn nhà cửa ruộng vườn đất đai tài sản. Những trang văn của anh nóng rực
về xã hội còn nhiều đen tối, tàn ác, đầy máu và nước mắt, đầy bi kịch kéo dài
suốt mấy chục năm qua. Phóng sự Đất Thủ Thiêm của anh vừa là lời tố cáo, hạch tội,
vừa là sự chia sẻ chân thành với các nạn nhân, đăng trên nhiều kênh thông tin
“không chính thống”.
Điều
may mắn cho giới cầm bút văn chương nước nhà là người dân Thủ Thiêm vẫn nghĩ
đang có nhà văn đứng về phía mình, bênh vực cho mình, chứ không biết đội ngũ quốc
doanh và Võ Đắc Danh khác nhau nhiều lắm, dù cùng mác nhà văn.
Lên
tiếng về những vụ cướp đất, phải nhắc tới nhà văn Tạ Duy Anh, trên
kênh Facebook có “búc danh” Lão Tạ (Lao Ta). Ông vốn là nhà văn quốc
doanh, cũng như Võ Đắc Danh từng hội viên mậu dịch. Lão Tạ đã dứt hẳn cái vòng
kim cô chưa thì tôi không rõ lắm, chứ tôi biết anh Danh, cũng như các bác các
anh chị Nguyên Ngọc, Nguyễn Duy, Ý Nhi, Ngô Thị Kim Cúc, Trần Mạnh Hảo, Đào
Hiếu, Hoàng Hưng, Đỗ Trung Quân, Bùi Chí Vinh, Phạm Xuân Nguyên… thì đã
“bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán”, tự cởi kim cô khá lâu rồi. Họ đứng thẳng
và dấn thân vì những điều tốt đẹp.
Đọc
"Đất, máu và sắt" viết về vụ Đồng Tâm của Lão Tạ - Tạ Duy Anh, có cảm
giác đang nghe bản án, bản luận tội đanh thép và đầy bức xúc. Lão Tạ biên chép
thật rõ ràng, khó thể chối cãi, chẳng hạn: “Đồng Tâm trở thành mảnh đất đẫm máu
người Việt nhất kể từ sau năm 1975”. Tạ Duy Anh không chỉ vạch ra vụ việc kinh
thiên động địa để giúp mọi người hiểu rõ thực chất của nó mà còn dõng dạc: “Ai
đã đẩy những người nông dân yêu đất đai ấy đến chỗ phạm tội?” Ai? Hỏi mà không
cần trả lời bởi đã quá rõ ràng. Ngưỡng mộ ông, Tạ Duy Anh, Lão Tạ, người văn
chân chính, phi mậu dịch, phi quốc doanh. Nhà văn của nhân dân.
Không
chỉ có Đắc Danh và Lão Tạ, ở xứ này những nhà văn tử tế, thân dân, trọng lẽ phải,
không an phận, không ích kỷ, vượt trên sự tầm thường, dám hiên ngang trước cường
quyền, từ lâu nay chưa hề thiếu vắng. Những văn nhân thi sĩ từng dũng cảm “xông
lên đoạt trời” hồi Nhân văn giai phẩm nửa cuối thập niên 50 là điển hình cho đẳng
cấp nhà văn như thế. Thập niên 80 - 90, nếu không có những nhà văn đầy trách
nhiệm với cuộc sống mà họ đang sống, như Trần Huy Quang, Trần Khắc, Phùng
Gia Lộc, Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Minh Tường, Lưu Quang Vũ… thì sao có những
trang viết lay động tâm can đến bây giờ, những Cái đêm hôm ấy đêm gì, Chuyện về
ông vua lốp, Người đàn bà quỳ, Tướng về hưu, Lời khai của bị can, Làng giáo có
gì vui, Tôi và chúng ta… Những mảng đời đen tối, bất công, tủi nhục, độc ác… bị
che giấu, phủ son, những nhà văn ấy mà không xông ra biên chép phản ánh, thì họ
cũng chỉ giống như số đông an phận chim hót trong lồng.
Bây
giờ nhắc tới tác phẩm thời kỳ đó, người ta luôn nhớ Cái đêm hôm ấy đêm gì, Vua
lốp, Tướng về hưu… chứ mấy ai đoái hoài tới đỉnh cao này nọ, giải ấy giải
kia đâu. Giả dụ Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Nguyễn Huy Thiệp không chịu dấn
thân đời thực, cứ ngồi ru rú phòng văn thai nghén cho tác phẩm vài mươi năm
sau, chắc chắn bây giờ không mấy ai biết đến họ, nhắc tới họ. Người đời sẽ
không hề biết trong lịch sử hiện đại xứ này từng xảy ra rất nhiều “cái đêm hôm ấy”
với tiếng kêu xé ruột; còn nhà văn như anh Lộc, họ sẽ “chết” lặng không để lại
dấu vết như phần lớn văn sĩ quốc doanh cùng thời với mình.
Mỗi
khi chứng kiến cuộc sống ngồn ngộn chất liệu văn chương bị trôi đi rất lãng
phí, hiện thực nóng hơn chảo dầu sôi, thân phận con người chất chứa tầng tầng lớp
lớp bi hài kịch, còn đội ngũ nhà văn đông chưa từng có nhưng “giữa phố đông
không thấy mặt người”, thiên hạ lại ngậm ngùi tiếc rẻ rỉ tai nhau “giá mà có Vũ
Trọng Phụng, Lưu Quang Vũ nhỉ”, “nếu Phụng sống ở thời này thì phải biết”…
Ôi
giời, so với chả bì. Ông Phụng mà còn sống, có khi lại bị định hướng, nghênh
ngang trên đầu cái vòng kim cô, đặc sệt quốc doanh giống như hơn nghìn hội viên
văn quốc doanh mậu dịch an phận bây giờ, thì lấy đâu ra Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê,
Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Số độc đắc, Làm đĩ… liên tiếp ra mắt trong vòng chưa đầy
chục năm trời.
Một
nước, một dân tộc không thể thiếu nền văn hóa. Văn học văn chương là cột trụ của
nền văn hóa ấy. Nước Nam ta, bao đời nay theo dòng thời gian trôi đi, trôi mãi
không ngừng, các sự kiện, vĩ nhân, anh hùng, dấu mốc lịch sử, khúc ngoặt khúc
quanh dần chìm khuất, thậm chí mất hẳn sau lớp lớp sóng xô, nhưng văn chương
tinh hoa vẫn tồn tại, còn mãi với đời. Người ta gọi đó là giá trị trường tồn.
Điều
dễ nhận ra, những tác phẩm sinh nở từ cuộc sống hiện thực, phản chiếu bức tranh
xã hội cụ thể, chứa những mảnh đời, thân phận, buồn vui trong chính thời đại mà
người cầm bút sống, từng trải, chiêm nghiệm, mô tả, biên chép; những trang viết
ròng ròng máu, mồ hôi, nước mắt, đầy tiếng khóc tiếng cười, thì thường thọ lâu
bền hơn so với thứ văn chương hư cấu, tưởng tượng. Ngay cả Truyện Kiều, dù lấy
cốt từ văn học lịch sử Tàu thì bức tranh xã hội mà cụ Tiên Điền mô tả vẫn là xã
hội cụ đang sống, đang trôi từng ngày trong đời cụ, như chính cụ thổ lộ “những
điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Đành
rằng những tác phẩm hư cấu, tưởng tượng, không gắn với hiện thực đang tồn tại
cũng có nhiều cái hay riêng của nó, nhất là điều được gọi là “giá trị nghệ thuật”,
nhưng quả thật để tạo nên sự lay động lòng người, khiến người ta phải khóc cười
thì văn chương phi hư cấu mới làm đầy đủ. Thứ văn ấy là văn trong sử, văn chứa
sử, chứa bóng dáng thời đại qua mỗi chặng đường xã hội.
Không
ai hồ đồ phán xét các nhà văn quốc doanh, văn chương mậu dịch là thoát ly hẳn
cuộc sống. Phần đông nhà văn ta vẫn viết về tổ quốc tươi đẹp, quê hương yêu dấu,
chủ quyền biển đảo, kinh tế thị trường, những trò đùa dai, những sự hiểu lầm,
viết về tình yêu, về nỗi buồn, về sông dài núi cao, về chủ nghĩa xã hội… Nhiều
lắm.
Hình
như họ chỉ quên cuộc sống bần cùng của dân chúng, nỗi đau của người bị áp bức,
cảnh người lương thiện bị xô đẩy vào đường cùng. Văn mậu dịch nhiều niềm vui,
màu hồng, tiếng cười nắc nẻ, trò giải trí, chỉ thiếu bức tranh xã hội xám xịt,
thiếu bi kịch thân phận dân chúng cần lao. Chỉ chê trách nó thôi là còn quá nhẹ.
Tuy nhiên, nó im còn đỡ, chứ lại rặn đẻ ra vài cái “chuyện làng Nhô” nữa thì mới
thực sự đáng buồn.
Đừng
trách tôi nặng lời. Tôi còn nhớ, thời thập niên 60 - 70, chính quyền luôn lo
ngại nhà văn trong đội ngũ của họ dửng dưng với thời cuộc nên thường tổ chức những
cuộc đi thực tế, họ gọi là lăn mình vào cuộc sống, thở hơi thở của nhân dân, bắt
nhà văn phải xả thân vào hiện thực nóng bỏng, nếu thu hoạch được gì qua mắt thấy
tai nghe thì viết ngay, sinh đẻ ngay tác phẩm.
Trang
văn vì vậy sôi động, ấm áp, sinh sắc, thu hút, chân thực, có hồn. Lứa chúng tôi
ra đời giữa thập niên 50 được đọc nhiều tác phẩm như thế, dù biết rằng nó cũng
chỉ là thứ sản phẩm minh họa, tính định hướng cao, hằn rõ vòng kim cô. Chả thể
đòi hỏi gì hơn bởi dù sao cũng là đồ mậu dịch. Mậu dịch mà được vậy là khá lắm
rồi.
Lâu
nay nhà văn luôn đòi quyền tự do sáng tác, khi công khai, lúc ngấm ngầm. Chả
ông bà nhà văn nào tự nhận mình không thích tự do sáng tác. Chỉ có điều, khi đã
tự nguyện chấp nhận mình thành nhà văn mậu dịch, thành viên của hội văn quốc
doanh thì quyền tự do sáng tác không có tác dụng nữa. Họ cũng như ông Fadeev của
Liên Xô ngày trước thôi, rất ngạo nghễ tuyên bố “các nhà văn xô viết chúng ta
được sáng tác theo tiếng gọi của trái tim mình, nhưng trái tim chúng ta đã thuộc
về đảng”.
Hồi
đầu thập niên 70, tôi được nghe kể ông Trường Chinh đến chỉ đạo đại hội nhà
văn (thời nào cũng vậy, đảng rất thích chỉ đạo văn nghệ sĩ), nghe loáng thoáng
nhà văn nào đó rụt rè về quyền tự do sáng tác, "anh Cả" liền mắng
ngay, đại loại, ai bảo rằng các anh chị không có quyền tự do sáng tác, các anh
chị vẫn có quyền tha hồ chửi bọn đế quốc Mỹ đó thôi. Bị cụ mắng, thế là tịt
ngòi, cấm ai dám ho he. Vậy nên, đừng trao quyền tự do sáng tác cho nhà văn quốc
doanh làm gì, bởi nó là thứ xa xỉ, thừa, không cần thiết, lãng phí.
Nhưng
xin thưa với các nhà văn quốc doanh, chính cụ Cả cũng từng khuyên rất chí lý với
những nhà văn nhà thơ xa rời cuộc sống, thờ ơ trước số phận nhân dân. Cụ bảo “Hỡi
thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!/Thời rượu nồng, nệm ấm đã qua rồi/Thôi thôi đừng
khóc gió với than mây/Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ”. Nhà văn mậu dịch,
ai mà chả biết chả thuộc chả nghe tuyên ngôn này. Vậy thì hỡi các vị, đảng đã dạy,
hãy thực hiện đi, về với đời thực, với dân chúng, với Thủ Thiêm, Đồng Tâm, với
những “cái đêm hôm ấy đêm gì”...
Phải
nhìn thẳng và thừa nhận rằng chưa bao giờ văn chương thơ phú mất giá như thời hội
đoàn quốc doanh. Dẫn ra thì bảo thô tục, thiếu tao nhã nhưng cái sự thê thảm ấy
đã được nhà thơ bình dân Bùi Hoàng Tám đúc kết một cách chính xác và
chua chát: “Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/Hôm qua nó bảo dí thơ vào lồn/Vợ tôi dở dại
dở khôn/Hôm nay lại bảo dí lồn vào thơ”. Mà chẳng riêng gì thơ, văn học phải đạo,
nghệ thuật phải đạo, bị định hướng dẫn dắt đều đáng dí như thế. Kịch rặt những
trò cười nhảm nhí rẻ tiền, đùa dai hiểu lầm; phim, nói như thi sĩ chuyên nghiệp
Trần Đăng Khoa, “ngồi buồn cởi cúc coi chim/còn hơn vào rạp xem phim nước
mình”…
Còn
điều nữa muốn nói, nhưng không phải với nhà văn quốc doanh, mà với hội của họ.
Xứ này nhiều hội đoàn quá rồi, bội thực hội, mãn hội, thành gánh nặng cho dân.
Dân còng lưng gánh quá nặng rồi, mong sao bớt được những thứ hội đoàn của nợ.
Báo Tuổi Trẻ năm 2016 có bài tít đậm nêu rõ xứ ta mỗi năm phải chi ngân sách tới
68.000 tỉ đồng để nuôi các hội đoàn. Đọc con số, nhiều người chết ngất. Hội văn
bút quốc doanh là một trong những cái miệng cá ngão bú bầu sữa ngân sách kinh
khủng đó.
Hỡi
hội nhà văn quốc doanh, hỡi ông Thiều ông Khoa, nên tự làm nuôi lấy mình, lao
động để tồn tại, sống bằng ngòi bút tử tế, đừng bấu xấu trông chờ tiền thuế của
dân. Hãy học các nhà sư (tất nhiên không phải sư quốc doanh), giác ngộ rằng
“nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm thì một ngày không
có ăn). Nhà chùa gánh trọng trách nặng nề cứu nhân độ thế mà còn biết tự lực
cánh sinh vậy, huống hồ nhà văn. Hãy lăn vào cuộc sống đa chiều, đừng
quen khóc gió than mây nữa.
Thông cào
(kính phím)
No comments:
Post a Comment