Mỗi
dân tộc cần tái suy ngẫm một cách có hệ thống về lịch sử của mình
Vương Trí Nhàn
07/03/2024
https://baotiengdan.com/2024/03/07/moi-dan-toc-can-tai-suy-ngam-mot-cach-co-he-thong-ve-lich-su-cua-minh/
Nguyên là bài: “Vì sao người Trung quốc vô duyên với tự do dân chủ?”
Tác giả: Tiêu Kiện Sinh (Trung Quốc); biên dịch: Nguyễn Hải Hoành. Tôi tìm thấy
bài này là do, ngày 15-2-2024 bài được đưa trên mạng Văn Việt với nhan đề “Vì sao chúng ta vô duyên với tự do dân chủ?”.
Cách đặt vấn
đề “cần tái suy ngẫm một cách có hệ thống” lịch sử dân tộc không chỉ đặt ra với
giới nghiên cứu lịch sử Trung quốc mà cũng là đúng với giới nghiên cứu lịch sử
Việt Nam, chẳng hạn trong việc nghiên cứu về lịch sử hình thành dân tộc, nguồn
gốc dân tộc đang diễn ra gần đây.
Vang vọng
nhất là cái câu: “Một dân tộc không thể triệt để suy ngẫm lại lịch sử nền
văn minh của mình thì rất khó nói đó là một dân tộc có hy vọng“.
Riêng
trong hoàn cảnh Việt Nam sự suy nghĩ lại này chắc chắn sẽ khó khăn vô hạn và hứa
hẹn nhiều đau xót hơn. Vì chúng ta không có một nền sử học lớn như Trung Quốc.
Mà lại càng khó khăn hơn vì chúng ta vừa trải qua một cuộc chiến tranh lấy những
tư tưởng sử học cũ làm nền tảng. Nhưng chính vì thế càng cần thay đổi như cái
câu mà người ta hay nói THAY ĐỔI HAY LÀ CHẾT!
***
Sau đây là
bài viết “Vì sao người Trung quốc vô duyên với tự do dân chủ?”
của Tiêu Kiện Sinh, do Nguyễn Hải Hoành biên dịch:
Thập niên
1980 tôi nảy ra ý nghĩ tái suy ngẫm một cách có hệ thống về lịch sử Trung Quốc.
Hồi ấy nhiều người vẫn còn quen dùng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp để
xem xét các vấn đề lịch sử, lồng ghép lịch sử sống động vào trong cái khuôn
phép giai cấp và đấu tranh giai cấp, tùy tiện xuyên tạc lịch sử, chia con người
ra làm hai loại lớn là “cách mạng” và “phản động” để đánh giá người ta, không
tôn trọng sự thực lịch sử. Tôi cảm thấy hiện tượng đó làm cho lịch sử bị đơn giản
hóa và dung tục hóa.
Đến nay mấy
chục năm đã trôi qua, lịch sử học của Trung Quốc đã có tiến bộ lớn. Nhưng trên
nhiều vấn đề trọng đại, sử học Trung Quốc vẫn chưa có sự thay đổi thực chất, vẫn
ở trong trạng thái tư tưởng hỗn loạn. Người nước ta không muốn triệt để suy ngẫm
lại lịch sử của mình, cho nên không thể nhận thức chính xác các thành tựu văn
minh trong lịch sử Trung Quốc, không học được các bài học kinh nghiệm thực sự hữu
ích.
[Chúng ta]
chưa có nhận thức đúng đắn cái gì cần vứt bỏ, cái gì cần thừa kế và phát triển.
Kết quả là cái đáng bỏ thì không bỏ, ngược lại còn được coi là tinh hoa văn
minh để thừa kế, còn cái tinh thần văn minh nên thừa kế và phát triển thì lại bị
coi là cặn bã để vứt bỏ.
Ví dụ, Lão
Tử đề xướng chủ trương “Kính thiên thuận đạo”, “Vô vi nhĩ trị”, Nho gia [Việt
Nam gọi là Nho giáo] đề xướng thái độ khoan dung “Nhân giả ái nhân”, “Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân”,[1] Mặc Tử đề xướng tư tưởng bác ái,
bình đẳng, phản chiến v.v… Những tư tưởng và chủ trương chính trị rất hay ấy lại
bị phủ định trong một thời gian dài; ngược lại, các tư tưởng bạo lực và chuyên
chế và thói giang hồ về sau xuất hiện thì lại được khẳng định và thừa kế lâu
dài. Do tinh hoa văn minh trong lịch sử Trung Quốc không được kế thừa và phát
triển nên kết quả là nền văn minh nước ta chưa đi lên con đường phát triển
lành mạnh.
Mỗi dân tộc
cần nhận thức đúng đắn lịch sử của mình. Chỉ có thế thì mới có thể tỉnh táo biết
được đâu là tinh hoa và cặn bã trong nền văn minh ấy, từ đó tìm được cho dân tộc
con đường đúng đắn để sinh tồn và phát triển. Một dân tộc không thể triệt để
suy ngẫm lại lịch sử nền văn minh của mình thì rất khó nói đó là một dân tộc có
hy vọng. Rất rõ ràng, một dân tộc không thể đối xử đúng đắn với ngay cả lịch sử
nền văn minh của mình thì sao có thể hy vọng dân tộc đó hướng tới tương lai với
một chí khí vĩ đại.
Cho tới
nay, rất nhiều người vẫn còn coi Xuân thu Chiến quốc là thời đại đen tối, chia
rẽ, rối loạn, chư hầu cát cứ, quân phiệt hỗn chiến. Về căn bản, họ chưa nghĩ
xem một xã hội đen tối thì sao có thể xuất hiện tình hình Trăm hoa đua
nở, Trăm nhà đua tiếng? Sao có thể sinh ra được nhiều như thế các nhà
tư tưởng, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn học và nhà khoa học? Sao có thể
làm cho các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội xuất hiện cảnh tượng
phơi phới vươn lên, phát triển mạnh mẽ như thế?
Cho tới
nay rất nhiều người vẫn coi việc Tần Thủy Hoàng dùng bạo lực thống nhất 6 nước,
xây dựng quốc gia chế độ chuyên chế hoàng đế đại nhất thống cao độ là một tiến
bộ vĩ đại của lịch sử. Thế nhưng họ không nghĩ xem nếu là tiến bộ vĩ đại thì vì
sao sau khi Tần diệt xong 6 nước, Trung Quốc lại không tái xuất hiện các nhà tư
tưởng vĩ đại như Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử? Vì sao nước ta luôn luôn xuất hiện
tình trạng loạn lạc có tính chu kỳ mà không thể nào thoát ra khỏi cái vòng luẩn
quẩn đó? Vì sao người Trung Quốc trong xã hội triều đại nhà Tần sống khổ như vậy?
Vì sao xã hội nhà Tần nhanh chóng thiên hạ đại loạn rồi đi tới sụp đổ?
Cho tới
nay rất nhiều người vẫn cho rằng triều đại nhà Tống là một triều đại chuyên chế,
thối nát, lạc hậu, nghèo yếu; họ có thái độ phủ định toàn bộ đối với nền văn
minh do nhà Tống tạo nên. Thế nhưng họ chưa nghĩ xem nếu là một xã hội chuyên
chế, thối nát, lạc hậu, nghèo yếu như thế thì tại sao xã hội ấy lại sáng tạo
nên một nền văn minh dẫn đầu thế giới hơn 100 năm? Vì sao xã hội ấy cống hiến
cho thế giới những phát minh vĩ đại như thuốc nổ, kim chỉ nam, kỹ thuật in chữ
rời? Vì sao dưới đời nhà Tống lại xuất hiện nền kinh tế hàng hóa phồn vinh như
trình bày trong “Thanh minh thượng hà đồ”? Tại sao người nhà Tống lại sinh ra
tiết tháo vĩ đại “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”?
Vì sao người nhà Tống lại sinh ra được khí tiết dân tộc cao thượng như “Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”?[2]
Cho tới
nay rất nhiều người còn thích thú cái gọi là “Khang Càn thịnh thế” [thời kỳ phồn
thịnh dưới các triều vua Khang Hy, Ung Chính và Càn Long, kéo dài 134 năm]. Thế
nhưng họ không nghĩ xem, nếu “Khang Càn thịnh thế” tiến bộ, phồn vinh như vậy
thì tại sao hoàng đế Càn Long mới chết được có 41 năm thì Trung Quốc lại phải cắt
đất, bồi thường, mất chủ quyền, làm đất nước chịu nỗi ô nhục khi bị súng lớn của
người nước ngoài bắn phá? Vì sao từ đó trở đi người Trung Quốc bị coi là bệnh
nhân Đông Á, bị người ta coi là quái vật và đồ ngu ngốc để cái đuôi lợn ở sau
gáy [tức để đuôi sam]? Vì sao Cung Tự Trân[3] lại phải viết câu thơ bi đát “Cửu
châu sinh khí thị phong lôi, vạn mã tề âm cứu khả ai, ngã khuyên thiên công trọng
đẩu sậu”?
Giờ đây mọi
người đều nói phải phục hưng văn minh Trung Hoa vĩ đại. Nhưng khi nói thế phải
chăng mọi người đã nghĩ tới chuyện thế nào là văn minh Trung Hoa vĩ đại? Cái vĩ
đại của nó thể hiện trên những mặt nào? Ngày nay cần phục hưng văn minh Trung
Hoa như thế nào? Có ai đã thực sự làm rõ các vấn đề này chưa? Nếu còn chưa rõ
văn minh Trung Hoa vĩ đại ở chỗ nào thì sao có thể nói tới chuyện phục hưng nó?
Đại loại
những vấn đề ấy đều không thể không làm cho người ta có một cảm giác mạnh mẽ:
tuy đã trải qua mấy chục năm cải cách mở cửa, người Trung Quốc vẫn chưa có nhận
thức tỉnh táo về lịch sử nền văn minh của mình, vẫn còn ở trạng thái mông muội.
Họ hoàn toàn chưa làm rõ cái nào là tiên tiến, cái nào là lạc hậu, cái nào là
văn minh, cái nào là dã man. Nếu nói trong thời đại Cách mạng Văn hóa trước cải
cách mở cửa, do lý thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp còn khống chế tư tưởng
mọi người, họ không thể nhận thức đúng đắn lịch sử của nước mình, điều đó có thể
thông cảm, thế thì ngày nay đã cải cách mở cửa mấy chục năm rồi mà người Trung
Quốc vẫn còn chẳng hề động lòng, vẫn tê liệt cảm giác, thì điều đó rất không
nên có. Một quốc gia, một dân tộc sao có thể lâu dài ở vào trạng thái như vậy?
…
Chính vì
nguyên nhân đó mà tôi cảm thấy cần thiết phải dùng các quan điểm văn
minh hiện đại như dân chủ, pháp trị, tự do và nhân quyền để triệt để tái suy ngẫm
lịch sử nền văn minh Trung Quốc. Tôi cảm thấy trước tình hình phát triển
kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc, chúng ta cần tiến hành tái suy ngẫm sâu sắc
lịch sử nền văn minh nước ta. Có như vậy thì mới hiểu được vì sao Trung Quốc
ngày nay lại như thế này, mới biết được người Trung Quốc đã làm đúng làm sai những
mặt nào, tại sao người Trung Quốc lại mắc các sai lầm ấy, qua đó hấp thu những
bài học kinh nghiệm hữu ích…
Một vấn đề
hiện thực nhất là nên cải cách thể chế chính trị hiện nay như thế nào nhằm
thích ứng tình hình kinh tế phát triển nhanh chóng của nước ta, qua đó xây dựng
nên một xã hội dân chủ, pháp trị, công bằng, tự do và hài hòa. Có người cho rằng
Trung Quốc muốn cải cách thể chế chính trị một cách hữu hiệu thì phải bắt chước
mô hình chính trị dân chủ của phương Tây, thực hành thể chế hiến chính dân chủ
toàn dân tranh cử, các chính đảng thay nhau nắm chính quyền, tam quyền phân lập
v.v…, cũng tức là toàn bộ Tây hóa. Nhưng cũng có người cho rằng mô hình chính
trị phương Tây không thích hợp tình hình Trung Quốc, việc cải cách thể chế
chính trị Trung Quốc tuyệt đối không được đi con đường toàn bộ Tây hóa.
Vậy thì rốt
cuộc Trung Quốc có thể đi con đường toàn bộ Tây hóa được không? Nếu không thì
đi con đường thế nào? Nói phải xây dựng xã hội XHCN có đặc sắc Trung Quốc, thế
thì thể chế chính trị của xã hội ấy nên như thế nào? Nếu nói chế độ chính trị
Trung Quốc hiện nay rất hoàn thiện, không cần cải cách, thế thì vì sao lại xảy
ra những đại bi kịch lịch sử như “Chống phái hữu”, “Đại Nhảy vọt”, và “Cách mạng
văn hóa”? Vì sao trước những tai họa dân tộc cực kỳ nặng nề như vậy mà chế độ của
chúng ta lại không có bất cứ phản kháng nào? Khi Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và
nhiều nhà lãnh đạo cùng các nhà trí thức và dân chúng bị đối xử bất công mà chết,
vì sao chế độ của chúng ta không thể bảo vệ họ một cách mạnh mẽ? Vì sao hiện
nay các hiện tượng thối nát như quan chức và doanh nhân câu kết, quyền và tiền
trao đổi với nhau, biến của công thành của tư, tiêu xài hoang phí, mua quan bán
chức, bọn xã hội đen điên cuồng hoạt động, và quyết sách sai lầm, phân phối bất
công, đạo đức suy đồi, lãng phí tài nguyên, môi trường sống xấu đi… lại chưa được
giải quyết triệt để?
Cho nên
xét theo tình hình thực tế, thể chế chính trị của Trung Quốc không những phải cải
cách mà còn phải tăng tốc quá trình cải cách. Nếu không thì không thể tưởng tượng
được việc làm sao có thể xây dựng Trung Quốc thành một xã hội thực sự dân chủ,
pháp trị, tự do và hài hòa, làm sao có thể thực hiện được mục tiêu Trung Quốc ổn
định lâu dài, kinh tế phát triển bền vững, ổn định và lành mạnh.
Lịch sử chứng
tỏ, phát triển kinh tế không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của
xã hội, chỉ có xây dựng một chế độ chính trị tốt đẹp thì quốc gia mới có thể đi
lên quỹ đạo phát triển lành mạnh, thực hiện ổn định lâu dài. Nhà kinh
tế nổi tiếng Dương Tiểu Khải có viết bài “Thế yếu của quốc gia đi sau” vạch ra
vấn đề này. Ông cho rằng các quốc gia lạc hậu do phát triển muộn nên có rất nhiều
thứ có thể bắt chước các nước phát triển.
Có hai
hình thức bắt chước. Một là bắt chước chế độ và một là bắt chước công nghệ và
mô hình công nghiệp hóa. Vì là nước đi sau cho nên có thể, dưới tình hình chưa
có chế độ cơ sở, thông qua bắt chước công nghệ mà thực hiện phát triển nhanh.
Có điều là, kiểu bắt chước ấy tuy có thể làm cho quốc gia lạc hậu trong một thời
gian ngắn phát triển rất tốt, nhưng lại sẽ để lại nhiều tai họa âm ỉ, thậm chí
phát triển lâu dài có thể thất bại, nguyên nhân là ở chỗ không có một chế độ
xây dựng tốt để làm đảm bảo. Cho nên ông hy vọng Trung Quốc không nên đi con đường
của các nước châu Mỹ Latinh, do chưa xây dựng được một chế độ xã hội tự do,
công bằng, tuy có một thời gian phồn vinh nhưng cuối cùng các nước này đều suy
thoái; nên nhìn thẳng vào thế yếu của quốc gia đi sau, dùng việc xây dựng chế độ
có tính cơ sở để thực hiện “Dùng chế độ [chính trị] để đưa
đất nước tiến lên”. Dương Tiểu Khải cho rằng, từ Ngũ Tứ trở đi, người Trung
Quốc đề xướng nhiều về dân chủ và khoa học nhưng lại bỏ qua tự do và cộng hòa.
Ông cho rằng, trên ý nghĩa nào đó, tự do và cộng hòa càng quan trọng hơn dân chủ
và khoa học. Cũng tức là nói chỉ có xây dựng quy tắc hiến chính và cơ chế cam kết
khả tín của Chính phủ, hạn chế các hành vi chủ nghĩa cơ hội của Chính phủ, bảo
đảm xã hội công bằng chính trực, bảo đảm quyền lợi và tự do của cá nhân, phát
huy đầy đủ sức sáng tạo của cá nhân, đó mới là cái căn bản để Trung Quốc đi lên
giàu mạnh phồn vinh.
Sau sự kiện
4/6/1989,[4] xã hội Trung Quốc đã thay đổi rất lớn.
Một mặt sức mạnh quốc gia tăng lên, một số thiết bị hạ tầng cơ sở như thông tin
liên lạc, năng lượng, xa lộ cao tốc và xây dựng đô thị đều đã tiếp cận hoặc đạt
mức của một số nước phát triển, nhìn chung đời sống nhân dân được nâng cao rất
nhiều. Nhưng mặt khác, mô hình Nhà nước chủ đạo tập trung tài nguyên đầu tư thiếu
sự xây dựng chế độ tốt, thiếu sự giám sát mạnh mẽ của xã hội, kết quả cũng có mặt
tiêu cực lớn. Đó là quan chức nhà nước lợi dụng quyền lực trong tay tiến hành
tham nhũng trên các mặt đề bạt cán bộ, trưng thu ruộng đất, đấu thầu dự án, dẫn
đến sự phình to bộ máy quan liêu và tham nhũng, cộng với sự bất công trong phân
phối và sự suy đồi đạo đức của mọi người đã gây nên những vấn đề xã hội nổi trội.
Trước tình
hình đó nhiều nhà trí thức đã kêu gọi Trung Quốc cần tăng tốc cải cách thể chế
chính trị, từng bước xây dựng chế độ hiến chính dân chủ, bảo đảm quyền tự do và
các quyền lợi hiến pháp quy định cho nhân dân về ngôn luận, tư tưởng, tín ngưỡng,
xuất bản, hội họp, lập hội, sao cho Trung Quốc đi lên quỹ đạo dân chủ và pháp
trị, để cho Trung Quốc chẳng những có văn minh vật chất mà còn có nền văn minh
tinh thần vĩ đại.
Lịch sử chứng
tỏ trên thế giới không có chế độ hoặc nền văn minh nào mười phân vẹn mười. Dưới
chế độ cộng hòa dân chủ và lập hiến, xã hội vẫn có tham nhũng, có sự cấu kết
quan chức với doanh nhân, hiệu suất hành chính thấp và các hiện tượng bất công,
bất hợp lý. Nhưng dưới chế độ hiến chính dân chủ, các hiện tượng đó không cấu
thành sự thối nát có tính hệ thống, không nguy hại tới sự vận hành bình thường
nền hành chính quốc gia; nếu có thì cũng dễ bị nhanh chóng vạch ra và được sửa
chữa. Nhưng chế độ chuyên chế trung ương tập quyền có một tệ nạn lớn nhất là
toàn bộ hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới đều thối nát sa đọa và lừa dối,
kiểm soát khống chế, tước đoạt nhân dân nhưng lại khó bị vạch ra –– bởi lẽ quyền
lực không bị giám sát hữu hiệu.
Bởi vậy,
cho tới nay mô hình chính trị dân chủ phương Tây vẫn là mô hình tương đối tiên
tiến, có tác dụng hữu hiệu chế ngự quyền lực và chống tham nhũng, có giá trị phổ
quát trên thế giới, không phụ thuộc vào ý thức hệ tư bản hay chủ nghĩa xã hội.
Xã hội loài người cho tới nay chưa phát minh được một chế độ nào tốt hơn có thể
thay thế chế độ hiến chính dân chủ. Cho nên người Trung Quốc nên cố gắng học tập
và bắt chước thành quả văn minh ưu tú này của nhân loại. Các nước phương Tây đã
học tập và áp dụng “Tứ đại phát minh” của Trung Quốc (thuốc nổ, kim chỉ nam, kỹ
thuật in chữ rời và chế độ khoa cử), thế thì vì sao Trung Quốc không học và áp
dụng chế độ hiến chính dân chủ của phương Tây?
Trong sách
“Tiến trình cải cách” ghi lại lời cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) Triệu Tử Dương có đoạn viết: “Dĩ nhiên một ngày nào đó trong tương
lai có thể sẽ xuất hiện một chế độ chính trị tốt hơn, cao cấp hơn chế độ nghị
viện dân chủ, nhưng đó là chuyện tương lai, bây giờ chưa có. Vì thế có thể nói
một quốc gia muốn thực hiện hiện đại hóa, thì chẳng những phải thực hành kinh tế
thị trường, phát triển văn minh hiện đại, mà còn phải thực hành chế độ chính trị
dân chủ. Nếu không thì quốc gia ấy không thể làm cho nền kinh tế thị trường của
mình trở thành kinh tế thị trường lành mạnh, hiện đại hóa, cũng không thể thực
hiện xã hội pháp trị hiện đại. Sẽ lại như nhiều nước đang phát triển (trong
đó có Trung Quốc), xuất hiện tình trạng quyền lực thị trường hóa, xã hội
thối nát và phân hóa hai cực nghiêm trọng.”
Nguyên là
Tổng Bí thư ĐCSTQ, những năm cuối đời ông Triệu Tử Dương suy đi nghĩ lại rút ra
được kết luận như trên không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đó là sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn chính trị nhiều năm, là kết quả tái suy ngẫm của ông về con đường
phát triển của Trung Quốc. Vì thế các quan điểm của ông rất đáng được mọi người
coi trọng.
Dĩ nhiên,
tại Trung Quốc, một quốc gia đất rộng người đông và có mấy nghìn năm truyền thống
chuyên chế, muốn tùy tiện vội vàng tiến hành cải tạo toàn bộ theo hướng của
phương Tây thì chắc chắn có khó khăn. Bởi lẽ trong lịch sử mấy nghìn năm nước
này chưa thực sự xuất hiện cơ sở xã hội để thực hành chính trị dân chủ phương
Tây. Trong lịch sử cận đại Trung Quốc cũng từng thực hành những cải tạo phương
Tây hóa như áp dụng chế độ quân chủ lập hiến và xây dựng Trung Hoa Dân quốc và
vì thế người Trung Quốc đã phải trả giá bằng nhiều hy sinh lớn, song kết quả chẳng
những không thành công mà còn làm cho xã hội Trung Quốc về sau lâm vào nguy cơ
sâu sắc hơn.
Bởi vậy cần
làm thế nào để, dưới tiền đề giữ vững ổn định xã hội, đẩy mạnh cuộc cải cách thể
chế chính trị nhằm thực hiện sự đổi mới nền văn minh Trung Quốc –– đã trở thành
vấn đề quan trọng nhất hiện nay. Tìm ra được câu trả lời cho vấn đề này là
trách nhiệm thiêng liêng của ngành khoa học xã hội Trung Quốc. Muốn thiết kế
thành công việc cải cách thể chế chính trị Trung Quốc thì phải học mô hình
chính trị tiên tiến của phương Tây, cũng phải hấp thu kinh nghiệm và bài học
trong lịch sử Trung Quốc, bởi lẽ việc xây dựng mô hình chính trị của Trung Quốc
thì bắt nguồn từ truyền thống lịch sử lâu dài của nước này.
Chính là
xuất phát từ động cơ ấy, trong cuốn sách này tôi đã đối chiếu sự phát triển văn
minh phương Tây để chú trọng nghiên cứu một số vấn đề như sau: Vì sao Trung Quốc
cổ đại chỉ có thể sinh ra nền văn minh nhất nguyên hóa chuyên chế quân chủ mà
không sinh ra được nền văn minh đa nguyên hóa dân chủ như Cổ Hy Lạp, Cổ La Mã?
Nền văn minh chuyên chế nhất nguyên hóa của Trung Quốc ra đời như thế nào, rồi
phát triển và tăng cường ra sao? Vì sao trong xã hội chuyên chế quân chủ, dưới
thời Đường Tống, nhất là đời nhà Tống, người Trung Quốc lại có thể sáng tạo được
nền văn minh tiên tiến dẫn đầu thế giới trong hơn 100 năm? Vì sao phương Tây có
thể sinh ra được nền chính trị lập hiến? Vì sao nền văn minh nhất nguyên hóa của
phương Tây thời Trung thế kỷ lại có thể thực hiện chuyển đổi thành nền văn minh
đa nguyên hóa? Còn nền văn minh nhất nguyên hóa của Trung Quốc trong thời kỳ cận
đại vì sao lại không thể chuyển đổi như vậy? Đâu là nguyên nhân căn bản gây ra
sự thất bại chuyển đổi ấy? vv….
Đồng thời
tôi còn phân tích tình trạng văn minh xã hội Tây Chu, Xuân Thu Chiến quốc và
các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; phân tích và đánh giá
một loạt sự kiện lớn như Biến pháp Thương Ưởng, nước Tần diệt 6 nước xung
quanh, Chiến tranh Thuốc Phiện, Duy Tân Mậu Tuất, chế độ quân chủ lập hiến,
Cách mạng Tân Hợi, phong trào Ngũ Tứ, sự kiện tự trị liên tỉnh năm 1921, phong
trào Hiến chính năm 1946. Ngoài ra còn trình bày các tìm hiểu về tư tưởng Nho
Giáo và phương thức tư duy của người Trung Quốc.
Do trình độ
có hạn của tác giả, nhiều quan điểm và cách nhìn chưa chắc đã chính xác; nhưng
tôi cảm thấy quan điểm của cá nhân chính xác hay không, điều đó không phải là
quan trọng nhất. Sự tái suy ngẫm sâu sắc về lịch sử nền văn minh Trung
Quốc mới là điều quan trọng, bởi lẽ nó sẽ giúp mọi người tái nhận thức
một cách khách quan lịch sử nước mình, giúp mọi người thăm dò khám phá kinh
nghiệm thành công và mô hình cải cách thể chế chính trị. Điều đó có ý nghĩa
tích cực đối với việc nâng cao tố chất dân tộc, thúc đẩy văn minh Trung Quốc tiến
lên, thúc đẩy việc xây dựng Trung Quốc hiện đại hóa.
Cốt lõi của
nền văn minh hiện đại là hạn chế sự lạm dụng quyền lực công của Chính phủ, bảo
đảm quyền lợi và tự do của các cá nhân. Hiến chương Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 26/6/1946 coi “Tăng tiến và khích lệ sự tôn trọng nhân quyền và các quyền
tự do cơ bản của toàn nhân loại” là một trong các tôn chỉ của Liên Hợp
Quốc. Tuyên ngôn nhân quyền thế giới do Liên Hợp Quốc thông qua ngày
10/12/1948, câu đầu tiên viết: “Thừa nhận sự tôn nghiêm vốn có, sự bình đẳng
và các quyền lợi của tất cả các thành viên trong gia đình là nền tảng của tự
do, công bằng và hòa bình thế giới … Một thế giới mọi người được hưởng quyền tự
do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và thoát được mọi nỗi sợ hãi và cảnh nghèo đói
đã được tuyên bố là nguyện vọng cao nhất của dân chúng.”
Trung Quốc
là nước ký Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn nhân quyền. Cố nhiên Chính
phủ Trung Hoa Dân quốc phải gánh vác nghĩa vụ thực hiện các nguyên tắc đó.
Tháng 10/1945, Mao Trạch Đông tuyên bố với tư cách Chủ tịch Chính phủ trung
ương của Đảng CSTQ: Trung Quốc phải thực hiện “Các nguyên tắc dân sở hữu,
dân trị, dân hưởng của Lincoln và 4 tự do lớn của Roosevelt”.
Trong Hiệp
định Song thập do đảng Cộng sản và Quốc dân đảng Trung Quốc ký năm
1945 và Cương lĩnh xây dựng hòa bình do hai đảng nói trên cùng
một số đoàn thể chính trị khác ký năm 1946 đều xác định mục tiêu Trung Quốc sẽ
thực hành chế độ hiến chính dân chủ và xây dựng Trung Quốc thành một nước dân
chủ, tự do, hòa bình, giàu mạnh.
Sự thành bại
của một quốc gia được quyết định bởi trình độ tự do cá nhân sống trong quốc gia
đó, trình độ chuyển biến từ thần dân thành công dân của họ. Nghiêm Phục[5] nói: “Quốc quý tự chủ, dân quý tự
do”. Ông cho rằng then chốt sự thành bại của quốc gia là cá nhân “có tự
do hay không có tự do”. Một quốc gia mà cá nhân không có tự do tư tưởng,
không có nhân cách độc lập thì đó là cái gốc của việc quốc gia đó chưa thể đi
lên con đường hiện đại hóa, chưa thể trở thành nước lớn mạnh, người dân chưa thể
trở thành công dân.
Có người
cho rằng quyền sinh tồn là quyền con người lớn nhất; giờ đây người Trung Quốc
đã được hưởng đầy đủ quyền sinh tồn tức là đã được hưởng nhân quyền. Đây là
quan điểm sai lầm. Quyền sinh tồn không phải là quyền lợi riêng của loài người;
các loài động vật cũng có quyền sinh tồn. Coi nhu cầu sinh lý và bản năng kiếm
sống của giới động vật là nhân quyền –– đây là sự bóp méo và báng bổ nhân quyền.
Nhân quyền là quyền lợi riêng loài người mới có; nhân quyền có hàm nghĩa rất rõ
ràng: đó là tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do xuất
bản, tự do hội họp lập đoàn thể v.v… Đây là nội dung nhân quyền do hiến pháp
quy định. Muốn bảo đảm thực hiện những quyền con người đó thì phải mở rộng nền
chính trị; nếu không thì không thể bảo đảm nhân quyền.
Hiện
nay Đài Loan đã đi lên con đường hiến chính dân chủ. Đại lục Trung Quốc cũng
nên thực hiện lời cam kết của mình, từng bước ổn thỏa mở rộng nền chính trị, đi
lên văn minh hiện đại hiến chính dân chủ. Việc xây dựng nền hiến chính dân chủ
không thể xa xôi vô thời hạn, trở thành cái bánh vẽ trong đầu óc người Trung Quốc,
mà nên có thời gian biểu, có lộ trình nhằm chấn hưng tinh thần dân tộc, tăng
lòng tin của nhân dân về tương lai và tình yêu đất nước, tăng lực ngưng tụ lòng
người. Điều này vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng một quốc gia vĩ đại.
Ngày nay,
khi ôn lại lịch sử, chúng ta không thể không vô cùng hy vọng về tương lai của
Trung Quốc, nhưng cũng không thể không cảm khái sâu sắc về sự thay đổi của lịch
sử: mô thức thay đổi triều đại theo kiểu được làm vua thua làm giặc khiến cho
người Trung Quốc chịu đựng quá nhiều đau khổ; cường quyền và bạo lực nên được
chấm dứt; đằng sau quốc nạn tham nhũng là các khiếm khuyết nghiêm trọng về chế
độ, quyền lực thiếu chế ước khiến cho các quan chức mặc sức làm bậy. Sự mở rộng
vô hạn quyền của quan chức đã trở thành nguồn gốc của các trở ngại tiến bộ xã hội
và mất ổn định xã hội. Cho dù xây dựng chế độ gì, áp dụng mô hình chính trị nào
thì mọi quốc gia đều phải coi hiến chính dân chủ là sự xếp sắp chế độ cơ bản
không thể thiếu được, đều phải đặt vấn đề hạn chế quyền lực Chính phủ và tôn trọng
quyền lợi và sự tự do của mỗi cá nhân lên vị trí hàng đầu.
Một quốc
gia văn minh thì phải giải quyết mọi vấn đề trên cơ sở dân chủ, pháp trị, bất cứ
ai cũng phải hoạt động trong phạm vi hiến pháp. Trong tình hình bị cưỡng chế bạo
lực, mọi công dân không nên làm những việc đi ngược ý chí của mình. Nếu công
dân bị cưỡng bức nói ngược lòng mình, làm ngược lòng mình thì chẳng còn tự do
gì để bàn. Chỉ cần không vi phạm hiến pháp và pháp luật thì không công dân nào
nên bị cưỡng chế. Nhà tư tưởng Anh Karl R. Popper có một danh ngôn: “Mỗi người đều chỉ
có quyền hy sinh vì sự nghiệp của mình nhưng không ai có quyền khuyến khích người
khác hy sinh vì một lý tưởng.” Điều này nên là nguyên tắc cơ bản mà một
xã hội văn minh phải tuân theo.
Việc xây dựng
chế độ hiến chính dân chủ của phương Tây bắt nguồn từ một tư tưởng quan trọng
–– đó là không tín nhiệm quyền lực, cũng tức là không tin vào nhân trị. Kinh
Thánh nói “Ngoài Thượng Đế ra, chẳng có ai là lương thiện cả.”
Nếu con người đã không tin cậy được thì ắt phải tiến hành chế ước quyền lực do
con người nắm giữ. Vì thế các quốc gia phương Tây đặt ra nhiều trình tự để phân
tán quyền lực và tiến hành chế ước lẫn nhau giữa các quyền lực, qua đó ngăn ngừa
sự lạm dụng quyền lực của Chính phủ. Ví dụ như bầu cử dân chủ, tự do báo chí,
chính trị đa đảng, địa phương tự trị, tam quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp)
phân lập, kiểm sát viên độc lập, đoàn bồi thẩm độc lập, chánh án độc lập, nhà
nước hóa quân đội v.v… Việc đặt ra, xây dựng và hoàn thiện các chế độ đó đã trải
nghiệm qua mấy trăm năm, trong đó tư tưởng cơ bản là bảo đảm các quyền lợi và sự
tự do cá nhân không bị chính quyền xâm phạm. Có lẽ những chế độ đó chưa phải là
phương thuốc hiệu nghiệm có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề, nhưng nó là một
mô hình sinh hoạt lý tưởng mà nhân loại theo đuổi, là then chốt để một quốc
gia, một dân tộc đi lên hưng thịnh.
Trong thời
kỳ cận đại, vì để thực hiện mục tiêu vĩ đại hiến chính dân chủ tại Trung Quốc,
nhiều người đã nối tiếp nhau tiến lên, nhiều vị tiên liệt như Đàm Tự Đồng, Tôn
Giáo Nhân đã đầu rơi máu chảy, trả những cái giá lớn, thế nhưng với người Trung
Quốc thì hiến chính dân chủ vẫn như bóng trăng dưới nước, đóa hoa trong gương,
có thể nhìn thấy nhưng không thể sờ vào. Năm 1911, Trung Quốc xây dựng nên nước
cộng hòa đầu tiên của châu Á. Tiếp đó năm 1949 lại một lần nữa xây dựng nước cộng
hòa. Ngày ấy người Trung Quốc đều nghĩ rằng dân chủ đã đến với họ. Thế nhưng cuối
cùng thì vẫn là sự thay đổi triều đại kiểu được làm vua thua làm giặc, giấc mơ
dân chủ tự do của người Trung Quốc vẫn là cái ảo ảnh.
Vì sao thực
hiện dân chủ tự do tại Trung Quốc lại khó như vậy? Vì sao người Trung Quốc lại
vô duyên với dân chủ tự do như vậy? Đây là một câu hỏi muôn thủa. Để giải đáp
câu hỏi này, rất nhiều người đã nghiên cứu bàn luận nhưng chưa ai có thể đưa ra
câu trả lời được mọi người tin phục.
Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu tìm hiểu của những người đi trước, sách này tiến hành phân
tích bàn thảo một lần nữa về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo,
tính cách dân tộc, nhằm tìm ra những chứng cớ và con đường để Trung Quốc có thể
đi lên văn minh hiện đại. Mong rằng các quan điểm của sách này có thể cung cấp
cho mọi người một số gợi ý hữu ích.
Tiêu Kiện
Sinh(萧 建 生, 1955-), nhà báo, người dân tộc
Thổ Gia tỉnh Hồ Nam, tốt nghiệp ngành văn học Hán ngữ Đại học Phát thanh Truyền
hình Trung ương, hiện là biên tập viên “Nhật báo Hồ Nam”.
Nguyễn
Hải Hoành lược dịch từ nguồn tiếng Trung 中国文明的反思(前言). 新世纪出版社, 香港, 2009年9月25日. Bài viết nhân dịp Quốc khánh Trung
Quốc và kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tân Hợi (10/10/1911).
______
[1] Kính thiên thuận đạo 敬天顺道: Kính trọng Trời, thuận theo Đạo, nghĩa là tuân
theo quy luật của thiên nhiên. Vô vi nhĩ trị 无为而治: Cai trị thiên hạ thuận theo tự
nhiên, để cho dân tự do phát triển. Nhân giả ái nhân 仁者爱人: Người có lòng Nhân thì tràn đầy tình yêu thương, là
người có trí tuệ lớn, có nhân cách cao cả. Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân己所不欲勿施於人: Điều gì mình không muốn thì cũng
đừng áp cho người khác (Theo baike.baidu.com).
[2] 人生自古誰無死, 留取丹心照汗青 Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ
đan tâm chiếu hãn thanh. Xưa nay có ai sống mãi không chết đâu, (tôi muốn) để lại
tấm lòng son yêu nước để chiếu rọi sử sách. Ý nói người có lý tưởng cao quý thì
sẵn sàng chết vì sự nghiệp của nước nhà. Một câu trong bài thơ nổi tiếng “Quá
Linh Đinh Dương” của Trạng nguyên Văn Thiên Tường 文天祥 (1236-1283), vị tướng chống giặc
Nguyên xâm lược và nhà thơ yêu nước đời Nam Tống.
[3] Cung Tự Trân, 龚自珍1792-1841, nhà tư tưởng và nhà văn học
đời Thanh, chủ trương chống sự xâm lược của phương Tây, vạch trần sự thối nát của
xã hội phong kiến. Đoạn thơ đầy đủ là 九州生氣恃風雷,萬馬齊喑究可哀. 我勸天公重抖擻,不拘壹格降人才.
Ý nói: Bất mãn sâu sắc trước bầu không khí nặng nề của xã hội TQ cuối đời
Thanh, tác giả kêu gọi cải cách xã hội, cho rằng biến đổi càng lớn càng tốt, lớn
đến như tiếng sấm mùa xuân kinh thiên động địa; tôi khuyên ông Trời hãy chấn phấn
tinh thần, đem người tài cho chúng tôi.
[4] Vụ đàn áp cuộc biểu tình của
sinh viên ngày 4/6/1989 tại quảng trường Thiên An Môn.
[5] 严复, 1854-1921, nhà tư tưởng khai sáng,
nhà giáo dục và phiên dịch nổi tiếng đời Thanh. Quốc quý tự chủ,
dân quý tự do: Ý nói tự chủ là điều quý nhất đối với quốc gia, tự do là điều
quý nhất đối với nhân dân.
No comments:
Post a Comment