2023
VẪN LÀ NĂM CỦA BỘ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG
Chỉ số tự
do báo chí của Việt Nam 2023 đứng ở mức 178/180, chỉ trên Trung Quốc và Bắc Triều
Tiên. Tôi vốn rất ít khi dẫn các số liệu của RSF không phải vì Chế độ vẫn xếp họ
vào hàng “thế lực thù địch” mà bởi họ không thực sự hiểu Việt Nam.
Việt Nam
không phải là Bắc Triều Tiên và, nếu như Trung Quốc kiểm soát tự do ngôn luận
có mục tiêu, có chiến lược, thì Việt Nam lại chưa bao giờ nhất quán. Điểm xếp hạng
tự do ngôn luận của Việt Nam đôi khi bị đánh tụt chỉ vì sự ấu trĩ của một vài
lãnh đạo và những âm mưu vặt vãnh của những người sau lưng họ.
Nhưng, thứ
hạng của năm 2023 không phải không có lý do của nó.
Theo
VnExpress: Từ tháng 10-2023, các kênh truyền hình hấp dẫn và lành mạnh như
National Geographic, Nat Geo Wild và Baby TV, Mezzo Live ngừng phát sóng ở Việt
Nam. Trước đó là Paramout Network, Baby First, còn từ 2021 cũng có 14 kênh nước
ngoài không còn hoạt động ở thị trường trong nước. Đến đầu tháng 11, nền tảng
OTT truyền hình Prime Video của Amazon ngừng hoạt động sau bảy năm.
Chẳng
phải vì các kênh truyền hình nói trên “ngừng phát sóng là vì sự chuyển hướng
kinh doanh”.
Cục
trưởng Phát thanh, truyền hình và Thông tin điện tử, Lê Quang Tự Do, nói thẳng:
“Các dịch vụ trên phải xác định mô hình kinh doanh tại Việt Nam là cung cấp dịch
vụ truyền hình, hay phim. Nếu là phim, họ phải tuân thủ luật Điện ảnh sửa đổi
và phải gỡ các nội dung truyền hình. Nếu cung cấp truyền hình, các dịch vụ phải
làm thủ tục cấp theo Nghị định 71 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát
thanh, truyền hình, có hiệu lực đầu năm nay”.
Điều này
có vẻ như là hợp lý trong tư duy của quan chức Việt Nam; nhưng, với những nhà
cung cấp dịch vụ cho gần 200 quốc gia này thì không ở đâu họ phải làm những thứ
thủ tục ngớ ngẩn như các quy định trong 71.
Cùng một
kênh giải trí có thể bị điều chỉnh bởi nhiều luật. Trong khi Luật Điện ảnh sửa
đổi [của Bộ Văn hóa Thể thao là khá thông thoáng] thì với các quy định trong
71, những kênh có các dịch vụ ngoài phim hoặc phải làm thủ tục xin phép mới hoặc
phải gỡ bỏ các ứng dụng thể thao, giải trí vô cùng hữu ích.
Nhiều
nhà cung cấp dịch vụ truyền hình xuyên biên giới không chấp nhận điều đó, họ bỏ
Việt Nam. Nạn nhân lớn nhất của những quy định này là khán giả Việt.
Thủ tướng
Phạm Minh Chính, hôm 22-12-2023, nói rằng, ông “xót ruột khi cứ mở tivi là thấy
phim nước ngoài”. Và, Bộ trưởng Nông nghiệp Lê Minh Hoan thì cho biết, mỗi phim
truyền hình Hàn Quốc quảng cáo trung bình khoảng 57 sản phẩm, bao gồm đồ nội thất,
mỹ phẩm, công nghệ, một cách khéo léo.
Chắc hẳn,
hai nhà lãnh đạo đều biết, phải qua NetFlix, Amazon Prime… nhiều người Việt mới
biết đến hàng trăm bộ phim của Việt Nam như Thanh Sói, Hai Phượng, Bí Mật Của
Gió… và biết đến, ngay cả những bộ phim rất “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” như
Mùi Cỏ Cháy...
Nhờ được
đưa lên những nền tảng ấy, những phim này của Việt Nam mới có cơ hội đến được với
hàng triệu thuê bao ở gần 200 quốc gia.
Phần lớn
các kênh truyền hình phải rút khỏi Việt Nam vì Nghị định 71 đều phi chính trị.
Và, những thủ tục, phép tắc trong Nghị định 71 chẳng mang lại lợi ích gì cho
khán giả và cho đất nước, nó chỉ trao cho các viên chức trong bộ máy công cụ
nhũng nhiễu và mang lại một số lợi ích không đáng kể cho “sân sau”.
Hội nghị
toàn quốc hôm 22-12-2023, đã cho thấy tín hiệu tốt khi Chính phủ coi “phim ảnh”
cũng là một “ngành công nghiệp”, “công nghiệp văn hóa”. Và, Bộ trưởng Lê Minh
Hoan thì nhận thấy, phim ảnh không chỉ là một sản phẩm văn hóa. Nông dân của
ông đang nhờ các nền tảng công nghệ xuyên quốc gia để quảng bá các nông phẩm.
Và trong
khi Bộ TT & TT điên cuồng chống lại, cả VTV, Truyền hình Quốc hội… đều lên
sóng “khoe” đài của họ được lan tỏa là nhờ Tik Tok, Facebook, Youtube...
Trên thực
tế, nhà nước vẫn không đối xử với phim ảnh, sách vở, báo chí như đối xử với một
ngành kinh doanh. Các cơ quan quản lý thường rất vô cảm khi cấm chiếu, hủy một
buổi biểu diễn, đóng cửa, đình bản một tờ báo chỉ vì vài câu chữ [đôi khi sai
đúng chỉ dựa trên cách đánh giá chưa chắc đã trong sáng của các chuyên viên] mà
không bao giờ đánh giá tác động kinh tế xã hội của các quyết định ấy.
Từ sai lầm
sáp nhập chức năng viễn thông [công nghệ] vào truyền thông [chính trị] mà sự lựa
chọn lãnh đạo cho Bộ Thông tin và Truyền Thông luôn có sai lầm. Lãnh đạo ngành,
khi còn bưu chính viễn thông thì luôn sáng tạo, tiên phong, đưa đất nước mở cửa,
hội nhập. Khi nhập thêm chức năng báo chí, xuất bản thì chỉ ngay ngắn được một
nhiệm kỳ. Các bộ trưởng về sau, kẻ thì tham nhũng vào tù, kẻ thì vừa nổ, vừa viễn
vông vừa trại lính.
Nhưng, cho
dù đã lộ nguyên hình là tội phạm, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn cũng không
thù địch với internet như kế nhiệm của các ông.
Trước hay
sau Đổi Mới thì báo chí đều là “công cụ của Đảng”. Nhưng trước và trong hơn hai
thập niên đầu của Đổi Mới, các nhà lãnh đạo vẫn luôn dành cho báo chí sự tôn trọng
nhất định. Chưa bao giờ các công cụ kinh doanh của báo chí bị hạn chế như thế
[mặc dù nhiều tờ báo vẫn phải tự chủ về kinh tế] và cũng chưa bao giờ địa vị của
nhà báo và úy tín của báo giới bị coi thường đến thế.
Càng trong
thời đại nhiễu nhương về thông tin, vai trò của báo chí chính thống càng hết sức
quan trọng. Nhưng cách quản lý báo chí hiện nay đã làm suy yếu tiếng nói chính
thống ấy. Kết quả là, không chỉ “mặt trận tư tưởng” của Tuyên giáo bị giảm khả
năng “định hướng”, xã hội cũng thiếu hẳn những tiếng nói tin cậy. Tin giả hoành
hành và nhiều khi mạnh hơn tin thật.
Khi tướng
Nguyễn Mạnh Hùng sang làm Bộ trưởng, trên trang này tôi đã cảnh báo ông, quốc
gia không phải là trại lính.
Trong
kỷ nguyên internet chủ quyền và lãnh thổ của quốc gia không đơn giản chỉ là những
cột mốc bê tông. Thiết lập chủ quyền quốc gia càng không phải là đẻ ra các loại
thủ tục để ngăn chặn người dân Việt Nam tiếp cận với các nền tảng công nghệ
trên internet mà phải khai thác những nền tảng ấy sao cho sáng tạo và thích hợp
nhất.
Cấm đoán
các nền tảng công nghệ rồi đóng cửa, nhái theo cách làm của họ thì sẽ hoặc là
thất bại như “Lotus” hoặc chỉ cho ra những sản phẩm công nghệ kiểu Việt Á.
Tinh thần
“hậu kiểm”, người dân được làm những gì pháp luật không cấm đã được đưa vào Luật
Doanh nghiệp từ năm 1999. Quản lý nhà nước không bằng những điều kiện, chuẩn mực
mà bằng giấy phép không chỉ là đi ngược với tinh thần ấy mà còn rất lỗi thời.
Chúng ta
đang ở trong một thời đại mà có thể ngày mai, các nền tảng công nghệ sẽ bổ sung
các ứng dụng mới mà hôm nay loài người chưa nghĩ tới và thật vô nghĩa khi ta mất
rất nhiều thời gian loay hoay chẻ nhỏ họ ra cho từng bộ ngành hành hạ với cái gọi
là quản lý.
Việt Nam
có thể đã phải cân nhắc rất cẩn trọng, tính toán rất chiến lược và ấp ủ không
phải trong một sớm một chiều mới có thể dàn xếp trong ngoài để đưa quan hệ Việt
- Mỹ lên tầm “chiến lược toàn diện”. Các nhà lãnh đạo Việt Nam sang Mỹ, sang
châu Âu đều cố gắng để tìm gặp, thuyết phục lãnh đạo các công ty công nghệ quan
tâm tới Việt Nam.
Nhưng, những
tư duy chiến lược và những nỗ lực ấy đôi khi lại có thể bị vô hiệu hóa bởi những
âm mưu vặt vãnh.
Sự thiếu
chuyên nghiệp của các cơ quan lập pháp, sự vị nể, thỏa hiệp giữa các bộ ngành
có thể để lọt những thủ tục được cài cắm trong các văn bản, khiến cho những
“chiến lược”, những “toàn diện” có nguy cơ trở nên vô nghĩa.
Bởi,
các công ty công nghệ khi tới Việt Nam, không phải là sẽ đối diện với các nhà
lãnh đạo đã nỗ lực khai mở lộ trình chiến lược mà sẽ rơi vào “thập diện mai phục”
của những thủ tục không được dạy ở bất cứ trường luật nào; phải đối diện với một
bộ máy rất nhiều cửa mà không biết mở cửa nào; đối diện với những cam kết mà
không có cam kết; đối diện một lịch trình mà không có thời hiệu; đối diện với
những chi phí không thể dự toán và không làm sao quyết toán.
2023 đúng
là năm của Bộ TT & TT.
Những quy
định trong Nghị định 71 cũng như những quy định đang được Bộ TT & TT dự thảo
trong Nghị định 72 có thể mang lại những lợi ích rất nhỏ nhặt và cục bộ. Nhưng
uy tín của quốc gia, cơ hội của hàng chục triệu người dân Việt Nam sẽ phải trả
giá.
Lịch sử
không cần biết danh tính những kẻ đang dấm dúi cài cắm các quy trình đẩy lùi
văn minh ấy nhưng lịch sử sẽ lại rất vô tư lưu danh những ai đã để cho bọn họ lộng
hành.
.
.
Cách đây khoảng gần chục năm thỉnh thoảng tôi vẫn lên
Amazon mua đĩa phim, mua vài tựa sách (ko phải là sách nhạy cảm) rất dễ dàng,
qua hải quan mà ko phải làm thủ tục gì cả. Nhưng mới đây khi mua những sản phẩm
này tôi mới phát hoảng khi DHL thông báo tôi phải đến Sở Thông tin truyền
thông và Sở Văn hoá thể thao du lịch của tỉnh để xin giấy phép nhập khẩu. Tôi
ko thể hiểu nổi cũng những tựa phim ấy, vốn đã được chiếu rạp chính thức tại
VN, qua cả đống khâu thẩm định soi xét, giờ tôi lại phải đi xin phép để nhập bản
đĩa của nó. Thủ tục của nó thì khỏi nói, phải làm đơn xin nhập khẩu (đương
nhiên), phải tự tìm giấy phép bản quyền của tựa phim đó (may mà bên Mỹ cái này
khá công khai trên mạng), rồi còn phải tóm tắt nội dung phim (đã từng chiếu
công khai ở rạp), phải dịch hết những thứ kia sang tiếng Việt (có chứng thực,
tôi thuê cty dịch thuật mất 500k), và sau khi dc cấp giấy phép, nhận đĩa rồi
thì phải mang đến sở cho họ xem trước khi cái đĩa phim ấy chính thức là của
mình. Tôi ko hiểu cơ chế quản lý kiểu gì, khi những sản phẩm đấy tôi nhập khẩu
hoàn toàn công khai minh bạch thì phải đi xin, còn trên shopee, lazada có đăng
bán cả đống đĩa phim, sách, văn hoá phẩm... mà tôi biết thừa là nội dung phản cảm,
thậm chí đồi trụy, nhập khẩu từ nước ngoài (Trung Quốc) thì hầu như chả có rào
cản gì cả, đặt hàng chỉ vài ngày là nhận dc.
.
Theo
dõi
Ngày đầu năm 2024, bài đầu tiên đọc, mang lại cho tôi những
suy tư về ý nghĩa thực sự của Tự Do. Một đất nước được Độc Lập đã 78 năm
(2/9/45), giá trị của sự tự do ấy đã được khắc ghi không chỉ trong Tuyên ngôn độc
lập, của Hiến pháp các thời kỳ, mà nó còn là khát vọng của cả dân tộc để
mưu cầu Hạnh Phúc. Có Tự do mới có Hạnh phúc ! Chân lý ấy, tiếc thay, đang bị
thách thức tại đây và vẫn chỉ là một niềm khát khao của nhiều thế hệ...
Suy tư.
No comments:
Post a Comment