PGS
Nguyễn Thị Hiệp : Mang ý nghĩa của nghiên cứu khoa học vào đời sống
Thu Hằng - RFI
Đăng ngày: 08/03/2021
- 09:03
Năm 2019, phó giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Thị Hiệp
được bình chọn là một trong 100 nhà khoa học hàng đầu châu Á, theo tạp chí
Asian Scientist của Singapore. Một năm trước, chị nằm trong số 14 nhà khoa học
nữ xuất sắc dưới 40 tuổi được trao Giải thưởng Nhà khoa học trẻ tài năng của
thế giới 2018, nằm trong khuôn khổ Giải thưởng Vì sự phát triển của phụ nữ
trong khoa học của Quỹ L’Oréal và UNESCO.
PGS-TS Nguyễn Thị
Hiệp, trưởng Khoa Kỹ thuật Y sinh, Đại học Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh. Ảnh trên tạp chí Asian Scientist, ngày 13/11/2018. ©
Asian Scientist / Ảnh chụp màn hình
Một điểm chung trong
những công trình nghiên cứu kỹ thuật y sinh của chị, lần lượt được nhận giải
thưởng quốc tế từ năm 2016 đến 2019, là có tính ứng dụng cao, đóng góp nổi bật
cho cộng đồng: keo kháng khuẩn giúp làm lành vết thương - một giải pháp sơ cứu
hữu hiệu cho người sống xa bệnh viện; nghiên cứu những phát hiện mới của loại
vật liệu Titanium trong ngành nha khoa phục hồi; giải pháp giảm áp lực lên các
thành phố đô thị hóa nhanh… và gần đây là sản phẩm Antiviral colloidal silver có
thể phòng nhiễm virus trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, hiện được lưu hành
trong nội bộ trường.
Gần 10 năm kể từ khi tốt
nghiệp tiến sĩ về y học tái tạo ở Hàn Quốc và trở về nước năm 2012, chị có 107
công trình khoa học, khoảng 100 bài báo trên các tạp chí khoa học quốc tế và
trong nước, đặc biệt là 4 bằng sáng chế.
Trả lời phỏng vấn RFI
Tiếng Việt ngày 04/03/2021, phó giáo sư-tiến sĩ Nguyễn Thị Hiệp, trưởng Khoa Kỹ
thuật Y sinh, Đại học Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, cho
biết thêm về hành trình từ “ba không” - không tài trợ, không
dự án, không máy móc - đến những thành công hiện nay.
*****
RFI : Thưa phó giáo sư-tiến sĩ Nguyễn Thị
Hiệp, chị học thạc sĩ rồi tiến sĩ ở Hàn Quốc, đã quen với môi trường nghiên cứu
hiện đại, cùng với trang thiết bị tối tân, nhưng rồi chị từ chối một mức lương
cao và bảo đảm một cuộc sống ổn định tại Hàn Quốc để về nước giảng dạy từ năm
2012. Lúc đó, chị có thấy mình “liều” khi đưa ra quyết định như vậy
không ?
PGS-TS Nguyễn Thị Hiệp : Đối với tôi, ngày xưa cũng như bây giờ, quyết
định đó không có gì là liều lĩnh, mà là một quyết định rõ ràng, có định hướng
cho tương lai của tôi.
Đối với tôi, hoặc với bất
kỳ người Việt Nam nào khi đi học ở nước ngoài, điều quan trọng nhất là nền tảng
gia đình và văn hóa người Việt, thì với tôi, điều cốt lõi đó còn mạnh mẽ hơn,
lôi cuốn tôi trở về để được làm việc và sống trong tình thương của gia
đình, của hàng xóm, của láng giềng và trong môi trường làm việc trong điều kiện
người Việt Nam. Cho nên, ngay cả bây giờ, tôi thấy đó là quyết định rất sáng
suốt, không “liều lĩnh”. Tôi nghĩ rằng với khả năng thực sự, thì người Việt khi
về nước cũng có khả năng làm tốt như ở nước ngoài, chứ không phải có điều kiện
vật chất tốt như nước ngoài thì mới thuận lợi trong làm việc.
Còn về lương bổng bảo đảm
điều kiện sống, mỗi người có một nhu cầu cuộc sống khác nhau. Đối với tôi, điều
đó không quá quan trọng, nên tôi có thể giảm bớt nhu cầu sinh hoạt cá nhân để
có thể làm nghiên cứu, đam mê của mình trong điều kiện ở Việt Nam.
*
RFI :Chị có một câu nói ấn tượng khi nói về bốn
công trình nghiên cứu của chị đăng ký ở Hàn Quốc, đều trở thành tài sản của
nước này. Dù thế, vào thời điểm đó, đã có khi nào chị nghĩ rằng nếu tiếp tục ở
lại Hàn Quốc, tương lai nghiên cứu khoa học của chị sẽ rộng mở hơn là về nước
chưa ? Thực ra đây cũng là trăn trở của rất nhiều du học sinh.
PGS-TS Nguyễn Thị Hiệp : Thật sự mà nói trong điều kiện tốt hơn thì
mình sẽ làm được nghiên cứu tốt hơn. Với những trang thiết bị máy móc tối tân
hơn thì mình sẽ ra được những kết quả chính xác, cũng như là là có
cái nhìn sâu hơn về khoa học. Tuy nhiên, làm nghiên cứu cũng phải căn cứ vào
mục tiêu. Ví dụ những máy móc tối tân đó sẽ giúp mình hiểu sâu về khoa học,
nhưng thực sự đời sống cần những sản phẩm khoa học không quá sâu như vậy.
Nghiên cứu khoa học được
chia thành hai mảng : nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Khi trở về
nước, tôi thấy rằng điều kiện nghiên cứu ở Việt Nam không bằng ở nước ngoài,
đặc biệt là trang thiết bị, nhiều thiết bị không thể nào có ở Việt Nam, cho nên
tôi suy nghĩ là nhu cầu ở trong nước đang cần cái gì và đặt mình vào cuộc sống
trong một nước đang phát triển, thì làm nghiên cứu khoa học phục vụ cho đời
sống người dân trong nước. Điều đó có nghĩa là mình đã hoàn thành nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học.
Tôi không nghĩ là ở nước
ngoài tôi sẽ là tốt hơn như hiện tại bởi vì đôi khi việc nghiên cứu cơ bản ở
nước ngoài với những thiết bị tối tân đó, không phải là sở trường của mình,
không phải là đam mê của mình. Mà đam mê của mình là làm ra những sản phẩm cho
đời sống, không cần quá cao siêu, không cần đến những trang thiết bị quá hiện
đại, mà đặt cái tâm của mình vào người dân, họ đang cần gì và mình nghiên cứu
để phục vụ đời sống.
Nghiên cứu khoa học phục
vụ cho đời sống là một nghiên cứu có ý nghĩa. Như vậy, đối với tôi là thành
công, chứ tôi không cảm thấy hối tiếc về quyết định trở về mà không ở lại để
được sống trong môi trường nghiên cứu tốt hơn so với ở Việt Nam ngay thời điểm
lúc đó.
*
RFI : Quãng thời gian 5 năm, kể từ khi về
nước năm 2012 cho đến những năm 2016-2017 khi các công trình nghiên cứu của chị
bắt đầu được công nhận qua nhiều giải thưởng lớn của quốc tế và trong nước, đó
có phải là giai đoạn khó khăn đối với chị không ?
PGS-TS Nguyễn Thị Hiệp : Thật ra mà nói rất là khó khăn, chứ không phải
chỉ khó khăn thôi. Nếu mọi người đọc báo thì thấy là khi tôi trở về nước, vào
làm việc tại Khoa Kỹ thuật Y sinh hiện tại, trước đó là bộ môn Kỹ thuật Y sinh,
lúc đó chuyên ngành khoa học y khoa không hề có trang thiết bị, bộ môn Kỹ thuật
Y sinh chỉ phát triển thiết bị y tế.
Tôi trở về làm những thí
nghiệm về Khoa học Y khoa đầu tiên và xây dựng bộ môn Y học tái tạo. Tôi là
người đặt những viên gạch đầu tiên, nền móng để phát triển hướng y học tái tạo
cho Khoa Kỹ thuật Y sinh hiện tại. Như người đi khai hoang, tôi thấy trước mặt
mình giống như một vùng đất khô cằn, hoang sơ và tôi nghĩ là có khả năng cải
tiến vùng đất đó trở nên đơm hoa kết trái. Có nhiều khi tôi thực sự khóc trước
những khó khăn. Tuy nhiên, tôi vẫn cố động viên bản thân là có thể làm được. Và
điều đó đã trả lại cho tôi một kết quả tốt sau khoảng thời gian 5 năm, từ ngày
về nước.
Về những khó khăn, thực
ra mà nói, khi di chuyển từ một môi trường làm việc rất tốt sang môi trường
không có gì, tôi nghĩ rằng điều đầu tiên mà nhà khoa học cần phải đối mặt đó là
phải vượt qua tâm lý. Nếu như có tâm lý sẵn sàng chiến đấu với khó khăn đó, thì
mình sẽ có thêm sức mạnh về tâm lý.
Tâm lý có hai dạng, hoặc
làm cho mình trở nên mạnh mẽ hơn, hoặc làm cho mình trở nên yếu đuối hơn. Nếu
cứ mang tâm lý kiểu: Điều kiện ở đây không đủ, không thể nào làm việc được, thì
điều đó có nghĩa là mình không thể nào làm việc được. Tuy nhiên, nếu mình mang
một tâm lý: Ờ, mình phải cải tiến chỗ này, làm việc được ở chỗ này, thì lúc
này, mình mang được sức, ngoài sức về thể xác, còn có thêm một sức về tinh
thần. Và tôi nghĩ rằng sức về tinh thần này mạnh hơn rất nhiều so với sức về
thể xác để giúp mình vượt qua những khó khăn. Mình phải tự chất vấn bản thân về
hoàn cảnh làm việc của mình mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng để cải tiến nó. Tôi
nghĩ rằng khó khăn sẽ không còn là khó khăn sau một quãng thời gian.
*
RFI : Có một số bài báo nói là chị là người
đi “săn” giải thưởng. Thực ra, trong môi trường nghiên cứu, danh tiếng của một
Khoa hoặc một Bộ môn có ý nghĩa rất lớn cho các công trình nghiên cứu sau này.
Có phải 5 năm này là giai đoạn chị gây tiếng cho Khoa không ?
PGS-TS Nguyễn Thị Hiệp : May mắn là khoa Kỹ thuật Y sinh là một khoa
nghiên cứu về những cái mới, ứng dụng vào đời sống sức khỏe của con người, vì
thế, các cán bộ ở đây làm việc rất hăng say. Ngoài tôi lãnh giải thưởng còn có
các thầy cô khác cũng lãnh rất nhiều giải thưởng từ trong nước cho đến quốc tế.
Tôi nghĩ rằng điều đó rất thuận lợi cho Khoa và dường như cán bộ ở đây cũng rất
năng nổ.
Tôi không phải là một cá
nhân được lãnh thưởng từ Khoa. Và tiếng tăm của Khoa không chỉ được xây dựng từ
riêng một mình tôi. Tôi nghĩ rằng thành công của Khoa ngày hôm nay là sự đóng
góp của rất nhiều thành viên, thầy cô và những người đi trước, cũng như là
những người trẻ sau này.
*
RFI : Những công trình nghiên cứu của chị
đều mang ý nghĩa và lợi ích lớn cho cộng đồng. Để có những ý tưởng này, nguồn
gốc xuất phát từ đâu ?
PGS-TS Nguyễn Thị Hiệp : Thường tôi hay lên mạng xem đời sống người dân
Việt Nam ở đây ở đó. Sau đó, tôi lấy ý tưởng từ những chuyến đi thực tế, để xem
thực tế ở đó có giống như trên mạng không. Rồi từ những thực tế đó, tôi suy
nghĩ về cách để cải thiện nó. Có nghĩa là tôi nhìn vào những gì người dân đang
phải chịu và những người xung quanh tôi phải chịu đựng, vì bản thân mình
làm trong kỹ thuật ngành Y, nên tôi lấy cảm hứng nghiên cứu từ những cảm xúc,
đặt mình vào vị trí của người dân không được tiếp cận với ngành y tế hiện đại
như những nước phát triển để tôi ra nội dung nghiên cứu.
*
RFI : Giáo sư Võ Văn Tới là người đặt nền
móng cho Bộ môn Kỹ thuật Y sinh, tiền thân của Khoa Kỹ thuật Y sinh hiện nay.
Chị tiếp tục công trình này như thế nào ? Làm thế nào để Khoa được biết
đến ở quy mô quốc gia và quốc tế ?
PGS-TS Nguyễn Thị Hiệp : Khoa Kỹ thuật Y sinh là khoa nghiên cứu về
những giải pháp, những phương pháp, những thiết bị để có thể cải thiện sức khỏe
đời sống của người dân.
Khoa được thành lập và
xây dựng bởi giáo sư Võ Văn Tới, một Việt kiều Mỹ, trở về, đặt tâm huyết xây
khoa này cho trường Đại học Quốc Tế tại Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh.
Thầy đã tạo ra một nền móng rất tốt để cho những cán bộ trẻ như tôi được
cộng tác, được làm việc và phát triển trên đó.
Để phát triển được Khoa
Kỹ thuật Y sinh ngang tầm với thế giới, tôi nghĩ rằng ngoài sức trẻ và những
nhà nghiên cứu làm việc hăng say như hiện tại, thì cần phải có sự ủng hộ của
Nhà nước về cơ chế. Có nghĩa là Nhà nước cung cấp một cơ chế thoáng về tài
chính, xây dựng những hướng dẫn rõ ràng về đầu ra của sản phẩm nghiên cứu tại
Khoa.
Ví dụ ở nước ngoài, những
trung tâm về Kỹ thuật Y sinh như này sẽ được Nhà nước xem xét bằng cách họ đầu
tư thẳng một cơ chế cho trung tâm để nghiên cứu và tạo ra những sản phẩm phục
vụ đời sống người dân. Họ sẽ tập trung tài trợ cho những nghiên cứu đó, những
sáng chế, những sản phẩm thật, sau đó là giúp cấp giấy tờ, giúp tìm nhà
đầu tư để đưa sản phẩm ra thị trường. Tôi hy vọng là Nhà nước tương lai sẽ xem
xét chuyện này và hỗ trợ cho Khoa Kỹ thuật Y sinh để phát triển mạnh mẽ hơn
nữa.
*
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư-tiến sĩ Nguyễn Thị Hiệp, trưởng
Khoa Kỹ thuật Y sinh, trường Đại học Quốc Tế tại Đại học Quốc Gia thành phố Hồ
Chí Minh.
No comments:
Post a Comment