Wednesday, 3 March 2021

GẦN NHƯ LÀ MỘT CUỘC CHIẾN TRANH (Kevin Rudd - Foreign Affairs)

 



GẦN NHƯ LÀ MỘT CUỘC CHIẾN TRANH

Kevin Rudd  -  Foreign Affairs   March/April 2021

Nguyễn Trung Kiên dịch

03/03/2021

https://rethinkingourfuture.blogspot.com/2021/02/gan-nhu-la-mot-cuoc-chien-tranh.html

 

Làm thế nào để giữ cho cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không kết thúc trong thảm họa

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/large_1x/public/images/2021/02/03/08_div_rgb.jpg?itok=FeJuR0xn

Ren Chenming / Color China Photo / AP

 

Các quan chức tại Washington và Bắc Kinh hiện nay không nhất trí với nhau về nhiều điều, nhưng có một điều mà họ thấy rõ: cuộc cạnh tranh giữa hai quốc gia sẽ bước vào giai đoạn quyết định trong thập niên 2020. Đây sẽ là thập kỷ sống trong nguy hiểm. Cho dù hai bên theo đuổi chiến lược nào, hoặc diễn ra những sự kiện nào, thì sự căng thẳng và cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ ngày càng gia tăng; điều này là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, một cuộc chiến tranh thì không. Hai quốc gia vẫn có thể đặt các giới hạn để ngăn chặn thảm họa: một khuôn khổ chung cho cái mà tôi gọi là “cạnh tranh chiến lược được kiểm soát” sẽ làm giảm nguy cơ để cuộc cạnh tranh leo thang trở thành một cuộc xung đột mở.

 

Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngày càng tin tưởng rằng vào cuối thập kỷ này, nền kinh tế Trung Quốc cuối cùng sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới về GDP tinhs theo tỷ giá hối đoái thị trường. Giới tinh hoa phương Tây có thể bác bỏ tầm quan trọng của cột mốc đó; nhưng Bộ Chính trị của ĐCSTQ thì không. Đối với Trung Quốc, kích thước luôn quan trọng. Việc chiếm vị trí số một sẽ tăng cường lòng tự tin, tính quyết đoán và sức mạnh mặc cả của Bắc Kinh trong các cuộc đàm phán với Washington, và nó sẽ khiến ngân hàng trung ương Trung Quốc có nhiều khả năng thả nổi đồng nhân dân tệ, mở tài khoản vốn và thách thức đồng đô-la Mỹ trong vai trò là đồng tiền dự trữ chính trên toàn cầu. Trong khi đó, Trung Quốc cũng tiếp tục tiến trên các mặt trận khác. Một kế hoạch chính sách mới, được công bố vào mùa Thu năm ngoái, hướng tới mục tiêu rằng Trung Quốc sẽ thống trị trong tất cả các lĩnh vực công nghệ mới, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, vào năm 2035. Và Bắc Kinh hiện dự định hoàn thành chương trình hiện đại hóa quân đội vào năm 2027 (sớm hơn 7 năm so với kế hoạch trước đó), với mục tiêu chính là tạo cho Trung Quốc một lợi thế quyết định trong tất cả các kịch bản có thể hình dung được về xung đột với Hoa Kỳ liên quan đến Đài Loan. Một chiến thắng trong một cuộc xung đột như vậy sẽ cho phép Chủ tịch Tập Cận Bình thực hiện một cuộc thống nhất cưỡng bức với Đài Loan trước khi rời bỏ quyền lực - một thành tích sẽ đưa ông ta ngang hàng với Mao Trạch Đông trong ngôi đền thiêng của ĐCSTQ.

 

Washington phải quyết định cách thức phản ứng với chương trình nghị sự đầy quyết đoán của Bắc Kinh - và phải quyết định một cách nhanh chóng. Nếu lựa chọn tách rời kinh tế và đối đầu công khai, mọi quốc gia trên thế giới sẽ buộc phải đứng về phía nào đó, và nguy cơ leo thang sẽ chỉ tăng lên. Trong số các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia, có thể hiểu được sự hoài nghi về việc liệu Washington và Bắc Kinh có thể tránh được một kết quả như vậy hay không. Nhiều người nghi ngờ rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể đạt được một khuôn khổ chung để quản lý các mối quan hệ ngoại giao, hoạt động quân sự và các hoạt động trên không gian mạng của họ, trong các vấn đề đã được thỏa thuận, nhằm tối đa hóa sự ổn định, tránh leo thang ngẫu nhiên và tạo không gian cho cạnh tranh và hợp tác. Hai quốc gia cần xem xét điều gì đó giống với các thủ tục và cơ chế mà Hoa Kỳ và Liên Xô đưa ra để điều phối mối quan hệ của họ sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba - nhưng trong trường hợp này, trước tiên, nếu không trải qua kinh nghiệm sinh tử của một cuộc chiến tranh hầu như không thể tránh được khỏi.

 

Cạnh tranh chiến lược được kiểm soát sẽ liên quan đến việc thiết lập các giới hạn cứng nhất định đối với các chính sách và ứng xử an ninh của mỗi quốc gia, nhưng đồng thời sẽ cho phép cạnh tranh toàn diện và công khai trong các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế và ý thức hệ. Nó cũng sẽ giúp Washington và Bắc Kinh có thể hợp tác trong một số lĩnh vực nhất định, thông qua các thỏa thuận song phương và cả các diễn đàn đa phương. Mặc dù một khuôn khổ như vậy sẽ khó xây dựng, nhưng vẫn có thể thực hiện được - và các lựa chọn thay thế có thể sẽ rất thảm khốc.

 

 

QUAN ĐIỂM DÀI HẠN CỦA BẮC KINH

 

Tại Hoa Kỳ, rất ít người quan tâm nhiều đến các động lực đối nội trong chính trị và kinh tế của chiến lược lớn của Trung Quốc, nội dung của chiến lược đó, hoặc cách thức mà Trung Quốc đã vận hành nó trong những thập kỷ gần đây. Cuộc đối thoại ở Washington chỉ xoay quanh những gì Hoa Kỳ phải làm, mà không dành nhiều thời gian suy nghĩ về việc liệu bất kỳ hành động nhất định nào có thể dẫn đến những thay đổi thực sự trong đường lối chiến lược của Trung Quốc hay không. Một ví dụ điển hình của kiểu chính sách đối ngoại thiển cận này là một bài diễn văn mà Ngoại trưởng Mike Pompeo khi đó đã gửi vào tháng 7 năm ngoái, trong đó ông kêu gọi lật đổ ĐCSTQ một cách hiệu quả. Ông tuyên bố: “Chúng ta, những quốc gia yêu tự do trên thế giới, phải khiến Trung Quốc thay đổi”, bao gồm cả việc “trao quyền cho người dân Trung Quốc”.

 

Tuy nhiên, điều duy nhất có thể khiến người dân Trung Quốc nổi lên chống lại ĐCSTQ và Nhà nước Trung Quốc là sự thất vọng của chính họ với thành tích kém cỏi của ĐCSTQ trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp, sự quản lý yếu kém triệt để của một thảm họa thiên nhiên (chẳng hạn như một cuộc đại dịch), hoặc sự đàn áp chính trị trở nên khắc nghiệt hơn. Sự khuyến khích từ bên ngoài đối với sự bất mãn như vậy, đặc biệt là từ Hoa Kỳ, không có khả năng giúp ích và có khả năng cản trở bất kỳ thay đổi nào đó. Bên cạnh đó, các đồng minh của Hoa kỳ sẽ không bao giờ ủng hộ cách tiếp cận như vậy; thay đổi chế độ không phải là một chiến lược để giành thắng lợi trong những thập kỷ gần đây. Cuối cùng, những tuyên bố khoa trương như của Pompeo hoàn toàn phản tác dụng, bởi vì chúng củng cố bàn tay sắt của ông Tập ở trong nước, cho phép ông chỉ ra mối đe dọa lật đổ của nước ngoài để biện minh cho các biện pháp an ninh trong nước ngày càng chặt chẽ hơn, do đó giúp ông dễ dàng tập hợp giới tinh hoa bất mãn của ĐCSTQ vào đoàn kết chống lại mối đe dọa từ bên ngoài.

 

Yếu tố cuối cùng đó đặc biệt quan trọng đối với ông Tập, bởi vì một trong những mục tiêu chính của ông là nắm giữ quyền lực cho đến năm 2035, lúc đó ông sẽ 82 tuổi, độ tuổi mà Mao qua đời. Quyết tâm của ông Tập được thể hiện qua việc ĐCSTQ bãi bỏ các giới hạn nhiệm kỳ, thông báo gần đây về một kế hoạch kinh tế kéo dài đến năm 2035 và thực tế là ông Tập thậm chí không hề ám chỉ ai có thể kế nhiệm ông, dù ông chỉ còn hai năm nữa trong nhiệm kỳ chính thức của mình. Ông Tập đã gặp một số khó khăn vào đầu năm 2020, do nền kinh tế tăng trưởng chậm lại và đại dịch COVID-19, có nguồn gốc từ Trung Quốc khiến ĐCSTQ vào thế phòng thủ. Nhưng vào cuối năm nay, các phương tiện truyền thông chính thức của Trung Quốc đã ca ngợi ông là “nhà điều hành và chỉ huy tài ba” mới của ĐCSTQ, người đã thắng thế trong một “ cuộc chiến tranh nhân dân” anh hùng chống lại virus corona chủng mới. Thật vậy, vị thế của ông Tập được hỗ trợ rất nhiều bởi sự quản lý tồi tệ đối với đại dịch ở Hoa Kỳ và một số quốc gia phương Tây khác, mà ĐCSTQ đã nêu bật như bằng chứng về tính ưu việt vốn có của hệ thống chuyên chế Trung Quốc. Và chỉ trong trường hợp bất kỳ quan chức đầy tham vọng nào của ĐCSTQ nuôi dưỡng suy nghĩ về một ứng cử viên thay thế để lãnh đạo Đảng này sau khi nhiệm kỳ của ông Tập được cho là kết thúc vào năm 2022, ông Tập gần đây đã phát động một cuộc thanh trừng lớn - một “chiến dịch cải chính”, như cách gọi của ĐCSTQ - của các thành viên được cho là không đủ trung thành với ông.

 

Trong khi đó, ông Tập đã tiến hành một cuộc đàn áp lớn đối với người thiểu số Duy Ngô Nhĩ của Trung Quốc ở khu vực Tân Cương; phát động các chiến dịch trấn áp ở Hồng Kông, Nội Mông và Tây Tạng; và tạo ra sự bất đồng chính kiến giữa các trí thức, luật sư, nghệ sĩ và lãnh tụ của các tổ chức tôn giáo trên khắp Trung Quốc. Ông Tập đã tin rằng Trung Quốc không nên lo sợ bất kỳ lệnh trừng phạt nào mà Hoa Kỳ có thể áp đặt lên đất nước của ông, hoặc đối với từng quan chức Trung Quốc, để đáp lại các hành vi vi phạm nhân quyền. Theo quan điểm của ông, nền kinh tế Trung Quốc hiện đã đủ mạnh để vượt qua các lệnh trừng phạt như vậy và ĐCSTQ cũng có thể bảo vệ các quan chức khỏi bất kỳ tác động nào. Hơn nữa, các biện pháp trừng phạt đơn phương của Hoa Kỳ khó có thể được các nước khác áp dụng, vì sợ Trung Quốc trả đũa. Tuy nhiên, ĐCSTQ vẫn nhạy cảm với những thiệt hại có thể gây ra cho tính chính danh của Trung Quốc trên toàn cầu khi cách đối xử với người thiểu số của ĐCSTQ ngày càng được thế giới biết đến. Đó là lý do tại sao Bắc Kinh trở nên tích cực hơn trên các diễn đàn quốc tế, bao gồm cả Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, nơi Bắc Kinh tập hợp sự ủng hộ cho chiến dịch đẩy lùi các quy tắc phổ biến từ lâu về nhân quyền, đồng thời thường xuyên công kích Hoa Kỳ đã vi phạm chính những tiêu chuẩn đó.

 

Ông Tập cũng có ý định đạt được sự tự cường của Trung Quốc để đối đầu với bất kỳ nỗ lực nào của Washington nhằm tách nền kinh tế Hoa Kỳ khỏi nền kinh tế của Trung Quốc hoặc sử dụng quyền kiểm soát của Hoa Kỳ đối với hệ thống tài chính toàn cầu nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sự thúc đẩy này nằm ở trọng tâm của điều mà ông Tập mô tả là “nền kinh tế tuần hoàn kép” của Trung Quốc: chuyển hướng khỏi phụ thuộc xuất khẩu và hướng tới tiêu dùng nội địa như động lực dài hạn của tăng trưởng kinh tế và kế hoạch dựa vào lực hút của thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới để thu hút các nhà đầu tư và nhà cung ứng nước ngoài vào Trung Quốc theo các điều kiện của Bắc Kinh. Ông Tập gần đây cũng đã công bố một chiến lược mới cho nghiên cứu và triển khai (R&D) công nghệ và sản xuất nhằm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc đối với việc nhập khẩu một số công nghệ cốt lõi, chẳng hạn như các linh kiện bán dẫn.

 

Cách tiếp cận này gặp phải vấn đề là nó ưu tiên sự kiểm soát của ĐCSTQ và các doanh nghiệp nhà nước hơn là khu vực tư nhân vốn làm việc chăm chỉ, đầy tinh thần đối mới và năng động trong kinh doanh của Trung Quốc – một khu vực là động lực chính cho thành tựu kinh tế đáng kể của đất nước trong hai thập kỷ qua. Để đối phó với mối đe dọa kinh tế bên ngoài từ Washington và mối đe dọa chính trị nội bộ từ các doanh nhân tư nhân có ảnh hưởng lâu dài đe dọa quyền lực của ĐCSTQ, ông Tập phải đối mặt với một tình huống khó xử quen thuộc với tất cả các chế độ độc tài: làm thế nào để thắt chặt kiểm soát chính trị từ trung ương mà không dập tắt sự tự tin và năng động trong kinh doanh.

 

Ông Tập phải đối mặt với một tình huống khó xử tương tự khi nói đến mục tiêu có lẽ là tối quan trọng của ông: đảm bảo quyền kiểm soát đối với Đài Loan. Ông Tập dường như đã kết luận rằng Trung Quốc và Đài Loan hiện đang rời xa sự thống nhất hòa bình hơn bất kỳ thời điểm nào trong 70 năm qua. Điều này có lẽ chính xác. Nhưng Trung Quốc thường bỏ qua vai trò của mình trong việc mở rộng cái hố sâu này. Nhiều người trong số những người tin rằng Trung Quốc sẽ dần dần tự do hóa hệ thống chính trị khi nước này mở cửa hệ thống kinh tế và kết nối nhiều hơn với phần còn lại của thế giới cũng hy vọng rằng tiến trình đó cuối cùng sẽ cho phép Đài Loan thoải mái hơn với một số hình thức thống nhất. Thay vào đó, Trung Quốc đã trở nên độc tài hơn dưới thời ông Tập, và lời hứa thống nhất theo công thức “một quốc gia, hai hệ thống” đã tan thành mây khói khi người Đài Loan chứng kiến những gì đang diễn ra ở Hồng Kông - nơi mà Trung Quốc đã áp đặt luật an ninh quốc gia mới đầy khắc nghiệt, bắt giữ các chính trị gia đối lập, hạn chế quyền tự do truyền thông.

 

Với việc gạt sự thống nhất bằng phương pháp hòa bình ra khỏi chương trình nghị sự, chiến lược của ông Tập bây giờ rất rõ ràng: gia tăng đáng kể sức mạnh quân sự mà Trung Quốc có thể sử dụng ở eo biển Đài Loan, đến mức Hoa Kỳ sẽ trở nên không sẵn sàng chiến đấu trong một trận chiến mà chính Washington đánh giá là sẽ có khả năng bị thua. Ông Tập tin rằng nếu không có sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, Đài Loan sẽ đầu hàng hoặc tự chiến đấu và thua cuộc. Tuy nhiên, cách tiếp cận này hoàn toàn đánh giá thấp ba yếu tố: khó khăn khi chiếm đóng một hòn đảo có kích thước bằng Hà Lan, có địa hình giống Na Uy và tự hào có dân số 25 triệu người đầy tinh thần chiến đấu; thiệt hại không thể bù đắp được đối với tính chính danh trong nền chính trị quốc tế của Trung Quốc sẽ phát sinh từ việc sử dụng vũ lực tàn bạo như vậy; và sự khó đoán sâu sắc của chính trị trong nước của Hoa Kỳ - điều sẽ quyết định bản chất trong phản ứng của Hoa Kỳ nếu và khi một cuộc khủng hoảng như vậy xảy ra. Bắc Kinh, khi đưa ra chủ nghĩa hiện thực mang tính chiến lược sâu sắc của mình áp vào Washington, đã kết luận rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ chiến đấu trong một cuộc chiến mà họ không thể chiến thắng, bởi vì làm như vậy sẽ làm xói mòn quyền lực, uy tín và vị thế toàn cầu của Hoa Kỳ trong tương lai. Điều mà Trung Quốc không tính đến trong phép tính này là một khả năng ngược lại: việc thất bại trong việc đấu tranh cho một nền dân chủ của một đồng minh mà Hoa Kỳ đã ủng hộ trong suốt thời kỳ hậu Đại chiến thế giới lần thứ Hai cũng sẽ là thảm họa đối với Washington, đặc biệt là về mặt nhận thức của các đồng minh của Hoa Kỳ tại Châu Á, những người có thể kết luận rằng các đảm bảo an ninh của Hoa Kỳ mà họ dựa vào từ lâu là vô giá trị - và sau đó tìm kiếm các thỏa thuận của riêng họ với Trung Quốc.

 

Đối với các yêu sách về hàng hải và lãnh thổ của Trung Quốc trên biển Hoa Đông và biển Đông, ông Tập sẽ không nhượng bộ một chút nào. Bắc Kinh sẽ tiếp tục duy trì sức ép lên các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông, tích cực phản đối các hoạt động tự do hàng hải, thăm dò xem có bất kỳ sự suy yếu nào trong quyết tâm của từng quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia trong khu vực này - nhưng đồng thời dừng ngay việc khiêu khích mà có thể gây ra một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Washington, bởi vì ở giai đoạn này, Trung Quốc không hoàn toàn tự tin rằng mình sẽ thắng. Trong khi chờ đợi, Bắc Kinh sẽ tìm cách công khai hóa một cách hợp lý nhất có thể đối với các cuộc đàm phán đang diễn ra với các quốc gia tranh chấp tại Đông Nam Á về việc sử dụng chung các nguồn năng lượng và nghề cá ở Biển Đông. Ở khu vực này, cũng như các khu vực khác, Trung Quốc sẽ triển khai đầy đủ đòn bẩy kinh tế của mình với hy vọng đảm bảo tính trung lập của khu vực trong trường hợp xảy ra sự cố quân sự hoặc khủng hoảng liên quan đến Hoa Kỳ hoặc các đồng minh. Ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng áp lực quân sự đối với Nhật Bản xung quanh quần đảo Điếu Ngư / Senkaku đang tranh chấp, nhưng cũng như ở Đông Nam Á, ở đây Bắc Kinh cũng khó có nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang, đặc biệt với tính chất rõ ràng của sự bảo lãnh an ninh mà Hoa Kỳ dành cho Nhật Bản. Bất kỳ rủi ro nào, dù nhỏ, về việc Trung Quốc bị thua trong một cuộc xung đột như vậy sẽ không bền vững về mặt chính trị ở Bắc Kinh và gây ra những hậu quả chính trị trong nước to lớn đối với ông Tập.

 

Bên dưới tất cả những lựa chọn chiến lược này là niềm tin của ông Tập, vốn đã được phản ánh trong các tuyên bố chính thức của Trung Quốc và các văn kiện của ĐCSTQ, rằng Hoa Kỳ đang trải qua một sự suy giảm mang tính cấu trúc, diễn ra liên tục và không thể đảo ngược. Niềm tin này hiện có cơ sở bởi một lượng lớn bằng chứng. Một chính quyeenf Hoa Kỳ đầy chia rẽ đã thất bại trong việc xây dựng chiến lược quốc gia về đầu tư dài hạn vào cơ sở hạ tầng, giáo dục và nghiên cứu khoa học & công nghệ cơ bản. Chính quyền Trump đã làm tổn hại các liên minh của Hoa Kỳ, từ bỏ tự do hóa thương mại, rút Hoa Kỳ khỏi vai trò lãnh đạo trật tự quốc tế thời hậu chiến và làm tê liệt năng lực ngoại giao của Hoa Kỳ. Đảng Cộng hòa đã bị chiếm đoạt bởi phe cực hữu, đồng thới các chính trị gia và cử tri Mỹ phân cực sâu sắc đến mức khó có tổng thống nào giành được sự ủng hộ cho chiến lược lưỡng đảng lâu dài đối với Trung Quốc. Ông Tập tin rằng Washington khó có khả năng khôi phục uy tín và niềm tin của mình với tư cách là một nhà lãnh đạo khu vực và toàn cầu. Và ông đang đặt cược rằng với thập kỷ mới đang đến, các nhà lãnh đạo thế giới khác sẽ chia sẻ quan điểm này và bắt đầu điều chỉnh các tư thế chiến lược của họ cho phù hợp, dần dần xoay chuyển từ hướng cân bằng giữa Washington với Bắc Kinh nhằm giảm thiểu rủi ro từ hai cường quốc, sang hướng ủng hộ Trung Quốc.

 

Nhưng những nỗi lo lắng của Trung Quốc đối với khả năng Washington tấn công Bắc Kinh cuối cùng đã tiêu tan. Mối quan tâm của ông Tập không chỉ là một cuộc xung đột quân sự tiềm tàng mà còn là bất kỳ sự tách rời kinh tế nhanh chóng và triệt để nào. Hơn nữa, nền tảng ngoại giao của ĐCSTQ lo ngại rằng chính quyền Biden, nhận ra rằng Hoa Kỳ sẽ sớm không thể tự mình so sánh với quyền lực của Trung Quốc, có thể hình thành một liên minh hiệu quả của các nước trong thế giới tư bản dân chủ với mục đích rõ ràng là đối trọng với Trung Quốc nói chung. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo ĐCSTQ lo ngại rằng đề xuất của Tổng thống Joe Biden về việc tổ chức hội nghị thượng đỉnh các nền dân chủ lớn trên thế giới đại diện cho một bước đầu tiên trên con đường đó, đó là lý do tại sao Trung Quốc hành động nhanh chóng để đảm bảo các thỏa thuận thương mại và đầu tư mới ở châu Á và châu Âu trước khi chính quyền mới bắt đầu nắm quyền.

 

Lưu ý đến sự kết hợp giữa rủi ro trước mắt và sức mạnh lâu dài của Trung Quốc, chiến lược ngoại giao chung của ông Tập đối với chính quyền Biden sẽ là giảm căng thẳng tức thời, ổn định mối quan hệ song phương càng sớm càng tốt và làm mọi thứ có thể để ngăn chặn khủng hoảng an ninh. Để đạt được mục tiêu này, Bắc Kinh sẽ tìm cách mở lại hoàn toàn các đường dây liên lạc quân sự cấp cao với Washington vốn đã bị cắt đứt phần lớn dưới thời chính quyền Trump. Ông Tập cũng có thể tìm cách triệu tập một cuộc đối thoại chính trị cấp cao, diễn ra thường xuyên, mặc dù Washington sẽ không quan tâm đến việc thiết lập lại Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung, vốn là kênh chính giữa hai quốc giacho đến khi nó sụp đổ trong bối cảnh chiến tranh thương mại trong những năm 2018–2019. Cuối cùng, Bắc Kinh có thể tiết chế hoạt động quân sự của mình trong thời gian trước mắt tại các khu vực mà Quân Giải phóng Nhân dân xung đột trực tiếp với lực lượng Hoa Kỳ, đặc biệt là ở Biển Đông và xung quanh Đài Loan - giả sử rằng chính quyền Biden ngừng các chuyến thăm chính trị cấp cao tới Đài Bắc, vốn đã trở thành một đặc điểm nổi bật của năm cuối cùng của chính quyền Trump. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, đây là những thay đổi về chiến thuật chứ không phải về chiến lược.

 

Khi ông Tập cố gắng giảm bớt căng thẳng trong thời gian tới, ông sẽ phải quyết định xem có nên tiếp tục theo đuổi chiến lược cứng rắn chống lại Australia, Canada và Ấn Độ - những quốc gia là bạn hay đồng minh của Hoa Kỳ, hay không. Điều này liên quan đến sự kết hợp giữa đóng băng mối quan hệ ngoại giao và đình trệ hợp tác kinh tế - và trong trường hợp của Ấn Độ là đối đầu quân sự trực tiếp. Ông Tập sẽ chờ đợi bất kỳ tín hiệu rõ ràng nào từ Washington rằng một phần cái giá phải trả cho việc ổn định mối quan hệ Mỹ-Trung sẽ là dấu chấm hết cho các biện pháp cưỡng bức như vậy đối với các đồng minh của Hoa Kỳ. Nếu không có tín hiệu nào như vậy sắp xảy ra - không có tín hiệu nào dưới thời Tổng thống Donald Trump - thì Bắc Kinh sẽ tiếp tục hành động như nó đã từng.

 

Trong khi đó, ông Tập sẽ tìm cách làm việc với Biden về vấn đề biến đổi khí hậu. Ông Tập hiểu rằng điều này là vì lợi ích của Trung Quốc vì nước này ngày càng dễ bị tổn thương trước các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Ông cũng nhận ra rằng Biden có cơ hội đạt được uy tín quốc tế nếu Bắc Kinh hợp tác với Washington về biến đổi khí hậu, dựa trên sức nặng của các cam kết về khí hậu của chính Biden, và ông biết rằng Biden sẽ muốn chứng minh rằng cam kết của ông với Bắc Kinh dẫn đến cắt giảm trong khí thải carbon của Trung Quốc. Theo nhận định của Trung Quốc, những yếu tố này sẽ mang lại cho ông Tập một số sức mạnh mặc cả trong các tổng thể các cuộc đàm phán giữa ông với Biden. Và ông Tập hy vọng rằng sự hợp tác nhiều hơn về vấn đề biến đối khí hậu sẽ giúp ổn định mối quan hệ Mỹ-Trung nói chung nhiều hơn.

 

Tuy nhiên, những điều chỉnh trong chính sách của Trung Quốc dọc theo những lộ trình này vẫn có khả năng mang tính chiến thuật hơn là chiến lược. Thật vậy, đã có sự liên tục đáng kể trong chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ kể từ khi ông Tập lên nắm quyền vào năm 2013, và Bắc Kinh đã bị bất ngờ bởi mức độ tương đối hạn chế mà Washington đã đẩy lùi, ít nhất là cho đến gần đây. Ông Tập, được thúc đẩy bởi chủ nghĩa quyết định luận Mác-Lênin, cũng tin rằng lịch sử đứng về phía ông. Giống như người tiền nhiệm Mao Trạch Đông, ông Tập đã trở thành một đối thủ cạnh tranh chiến lược đáng gờm của Hoa Kỳ.

 

 

DƯỚI NỀN QUẢN TRỊ MỚI

 

Về mặt cân bằng, giới lãnh đạo Trung Quốc từng thích chứng kiến sự tái đắc cử của Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm ngoái. Điều đó không có nghĩa là ông Tập đã nhìn thấy giá trị chiến lược trong mọi yếu tố trong chính sách đối ngoại của Trump; ông Tập đã không nhìn ra. ĐCSTQ nhận thấy cuộc chiến thương mại của chính quyền Trump đã khiến Bắc Kinh bẽ mặt, những động thái của Hoa Kỳ khiến Bắc Kinh phải lo lắng, những lời chỉ trích về nhân quyền của Trung Quốc mang tính xúc phạm, và tuyên bố chính thức về Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” là một tuyên bố nghiêm túc. Nhưng hầu hết các nhà thiết lập chính sách đối ngoại của ĐCSTQ đều coi sự thay đổi gần đây trong tình cảm của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc là mang tính cấu trúc - một sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của sự thay đổi cán cân quyền lực giữa hai quốc gia. Trên thực tế, một số người đã yên tâm rằng cạnh tranh chiến lược mở đã thay thế cho sự giả vờ hợp tác song phương. Nếu tiếp tục suy nghĩ theo hướng này, thì với việc Washington gỡ bỏ lớp mặt nạ, Trung Quốc giờ đây có thể tiến nhanh hơn - và trong một số trường hợp là mang tính công khai - hướng tới hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược của mình, đồng thời tuyên bố là bên bị hại khi đối mặt với sự hiếu chiến của Hoa Kỳ.

Nhưng cho đến nay, món quà lớn nhất mà Trump gửi đến Bắc Kinh là sự tàn phá tuyệt đối trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và các đồng minh, diễn ra trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của ông. Trung Quốc đã có thể khai thác nhiều vết mối quan hệ bị rạn nức giữa các nền dân chủ tự do khi họ cố gắng điều chỉnh trước chủ nghĩa bảo hộ của Trump, khuynh hướng phủ nhận biến đổi khí hậu, chủ nghĩa dân tộc và khinh thường mọi hình thức của chủ nghĩa đa phương. Trong những năm Trump nắm quyền, Bắc Kinh được hưởng lợi không phải vì những gì Bắc Kinh cung cấp cho thế giới mà vì những gì Washington ngừng cung cấp. Kết quả là Trung Quốc đã đạt được những thắng lợi như thỏa thuận thương mại tự do lớn châu Á - Thái Bình Dương, được gọi là Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, và Thỏa thuận Toàn diện EU-Trung Quốc về Đầu tư, vốn sẽ đưa mối quan hệ giữa nền kinh tế Trung Quốc và với các nền kinh tế của các nước châu Âu lên một mức độ sâu sắc hơn nhiều so với những gì mà Washington mong muốn.

 

Trung Quốc đang cảnh giác về khả năng của chính quyền Biden trong việc giúp Hoa Kỳ phục hồi sau những vết thương do chính Hoa Kỳ gây ra. Bắc Kinh đã chứng kiến Washington trở lại sau các thảm họa chính trị, kinh tế và an ninh từtrước đây. Tuy nhiên, ĐCSTQ vẫn tự tin rằng bản chất chia rẽ vốn có của nền chính trị Hoa Kỳ sẽ khiến chính quyền mới không thể củng cố sự ủng hộ cho bất kỳ chiến lược chặt chẽ nào của Trung Quốc mà Washington có thể đề ra.

 

Biden có ý định chứng minh Bắc Kinh sai khi đánh giá rằng Hoa Kỳ hiện đang sa sút không thể đảo ngược. Ông sẽ tìm cách sử dụng kinh nghiệm dày dặn của mình trong suốt thời gian hoạt động tại Quốc hội Hoa Kỳ để xây dựng một chiến lược kinh tế trong nước nhằm xây dựng lại nền tảng quyền lực của Hoa Kỳ trong thế giới hậu đại dịch. Ông cũng có khả năng sẽ tiếp tục tăng cường khả năng của quân đội Hoa Kỳ và làm những gì cần thiết để duy trì vị thế lãnh đạo công nghệ toàn cầu của Hoa Kỳ. Ông đã tập hợp một nhóm các cố vấn kinh tế, chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia là những chuyên gia giàu kinh nghiệm và thông thạo về Trung Quốc - trái ngược hoàn toàn với những người tiền nhiệm của họ, những người, với một vài ngoại lệ tầm trung, ít hiểu về Trung Quốc và thậm chí còn ít hiểu biết hơn về cách làm cho các chính sách mà Washington đề ra có thể thực thi. Các cố vấn của Biden cũng hiểu rằng để khôi phục quyền lực của Hoa Kỳ ở nước ngoài, họ phải xây dựng lại nền kinh tế Hoa Kỳ ở quê nhà theo những cách sẽ giảm bớt sự bất bình đẳng đáng kinh ngạc của đất nước và tăng cơ hội kinh tế cho tất cả người Mỹ. Làm như vậy sẽ giúp Biden duy trì đòn bẩy chính trị mà ông sẽ cần để xây dựng một chiến lược Trung Quốc lâu dài với sự ủng hộ của lưỡng đảng - không có nghĩa là thành công khi những đối thủ cơ hội như Pompeo sẽ có nhiều động lực để chê bai bất kỳ kế hoạch nào mà Biden đưa ra chỉ là nhằm xoa dịu Trung Quốc.

 

Để tạo được uy tín cho chiến lược của mình, Biden sẽ phải đảm bảo quân đội Hoa Kỳ luôn đi trước nhiều bước trước khả năng quân sự ngày càng tinh vi của Trung Quốc. Nhiệm vụ này sẽ trở nên khó khăn hơn bởi những ràng buộc ngân sách căng thẳng, cũng như áp lực từ một số phe phái trong Đảng Dân chủ nhằm giảm chi tiêu quân sự để thúc đẩy các chương trình phúc lợi xã hội. Để chiến lược của Biden về Bắc Kinh có thể được coi là đáng tin cậy, chính quyền của ông sẽ cần phải giữ vững ranh giới về tổng ngân sách quốc phòng và trang trải các chi phí gia tăng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương bằng cách chuyển hướng các nguồn lực quân sự khỏi các khu vực ít cấp bách hơn, chẳng hạn như châu Âu.

 

Khi Trung Quốc trở nên giàu có và mạnh mẽ hơn, các đồng minh lớn nhất và thân cận nhất của Hoa Kỳ sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với Washington. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ sẽ sớm yêu cầu sự tổng hợp của các đồng minh để duy trì sự cân bằng quyền lực tổng thể trước một kẻ thù. Trung Quốc sẽ tiếp tục cố gắng tách các nước ra khỏi Hoa Kỳ - chẳng hạn như Úc, Canada, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc và Vương quốc Anh - bằng cách sử dụng kết hợp cả hợp tác lẫn trừng phạt trong lĩnh vực kinh tế. Để ngăn chặn Trung Quốc thành công, chính quyền Biden cần cam kết mở cửa hoàn toàn nền kinh tế Hoa Kỳ cho các đối tác chiến lược lớn. Hoa Kỳ tự hào về việc có một trong những nền kinh tế cởi mở nhất trên thế giới. Nhưng ngay cả trước khi Trump xoay trục sang chủ nghĩa bảo hộ, điều đó đã không còn đúng. Washington từ lâu đã tạo gánh nặng cho các đồng minh thân cận nhất của mình bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại, đầu tư, vốn, công nghệ và nhân tài. Nếu Hoa Kỳ muốn tiếp tục là trung tâm của cái mà cho đến gần đây vẫn đượcđược gọi là “thế giới tự do”, thì quốc gia này phải tạo ra một nền kinh tế liền mạch xuyên qua ranh giới quốc gia của các đối tác và đồng minh lớn ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Để làm được như vậy, Biden phải vượt qua các xung lực của chủ nghĩa bảo hộ mà Trump đã khai thác và xây dựng sự ủng hộ cho các hiệp định thương mại mới được neo giữ trong các thị trường mở. Để xoa dịu nỗi sợ hãi của các cử tri hoài nghi, ông sẽ cần phải cho người Mỹ thấy rằng các thỏa thuận như vậy cuối cùng sẽ dẫn đến giá cả thấp hơn, tiền lương tốt hơn, nhiều cơ hội hơn cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ và bảo vệ môi trường mạnh mẽ hơn, và đảm bảo với họ rằng lợi ích giành được từ tự do hóa thương mại có thể giúp chi trả cho những cải tiến lớn trong nước về giáo dục, chăm sóc trẻ em và chăm sóc sức khỏe.

 

Chính quyền Biden cũng sẽ cố gắng khôi phục vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong các tổ chức đa phương như LHQ, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổ chức Thương mại Thế giới. Hầu hết thế giới sẽ hoan nghênh điều này sau 4 năm chứng kiến chính quyền Trump phá hoại phần lớn bộ máy của trật tự quốc tế thời hậu chiến. Nhưng hư hỏng sẽ không được sửa chữa trong một sớm một chiều. Các ưu tiên cấp bách nhất là sửa chữa quá trình giải quyết tranh chấp bị phá vỡ của Tổ chức Thương mại Thế giới, tái gia nhập hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, tăng mức độ vốn hóa của cả Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (để cung cấp các giải pháp thay thế đáng tin cậy cho Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á của Trung Quốc và Sáng kiến Vành đai & Con đường), và khôi phục tài trợ của Hoa Kỳ cho các cơ quan quan trọng của Liên Hợp Quốc. Các thể chế như vậy không chỉ là công cụ quyền lực mềm của Hoa Kỳ kể từ khi Washington giúp tạo ra chúng sau chiến tranh thế giới vừa qua; hoạt động của các thể chế như vậy cũng ảnh hưởng đáng kể đến quyền lực cứng của Hoa Kỳ trong các lĩnh vực như ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân và kiểm soát vũ khí. Nếu Washington bước lên đỉnh cao chỉ huy thì các thể chế của hệ thống quốc tế sẽ ngày càng trở thành những vệ tinh của Trung Quốc, được thúc đẩy bởi tài chính, ảnh hưởng và nhân sự của Trung Quốc.

 

 

CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC ĐƯỢC KIỂM SOÁT

 

Bản chất xung đột sâu sắc trong các mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ và Trung Quốc và bản chất cạnh tranh sâu sắc của mối quan hệ Mỹ-Trung có thể khiến tạo ra xung đột, và thậm chí tạo ra một chiến tranh dường như không thể tránh khỏi - ngay cả khi không quốc gia nào muốn kết cục đó. Trung Quốc sẽ tìm cách đạt được sự thống trị kinh tế toàn cầu và ưu thế quân sự trong khu vực so với Hoa Kỳ mà không gây ra xung đột trực tiếp với Washington và các đồng minh. Một khi đạt được ưu thế, Trung Quốc sẽ từng bước thay đổi hành vi của mình đối với các quốc gia khác, đặc biệt khi chính sách của họ mâu thuẫn với định nghĩa luôn thay đổi của Trung Quốc về lợi ích quốc gia cốt lõi của họ. Trên hết, Trung Quốc đã tìm cách từng bước làm cho hệ thống đa phương ngày càng phù hợp hơn với các lợi ích và giá trị của Trung Quốc.

 

Nhưng quá trình chuyển đổi dần dần vaf hòa bình sang một trật tự quốc tế phù hợp với sự lãnh đạo của Trung Quốc hiện nay dường như ít có khả năng xảy ra hơn nhiều so với cách đây vài năm. Đối với tất cả những hành vi lập dị và sai sót của chính quyền Trump, quyết định tuyên bố Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chiến lược, chính thức chấm dứt học thuyết can dự chiến lược và phát động chiến tranh thương mại với Bắc Kinh đã thành công trong việc làm rõ rằng Washington sẵn sàng gây chiến đáng kể. Và kế hoạch của chính quyền Biden nhằm xây dựng lại các nguyên tắc cơ bản của quyền lực quốc gia Hoa Kỳ ở trong nước, xây dựng lại các liên minh của Hoa Kỳ ở nước ngoài, và từ chối việc quay trở lại các hình thức can dự chiến lược trước đây với Trung Quốc một cách đơn giản báo hiệu rằng cuộc cạnh tranh sẽ tiếp tục, mặc dù được thúc đẩy bởi sự hợp tác trong một số lĩnh vực đã xác định.

 

Khi đó, câu hỏi đặt ra cho cả Washington và Bắc Kinh là liệu họ có thể tiến hành cuộc cạnh tranh chiến lược ở cấp độ cao này trong các giới hạn đã được thống nhất để giảm nguy cơ xảy ra khủng hoảng, xung đột và chiến tranh hay không. Về lý thuyết, điều này là có thể. Tuy nhiên, trên thực tế, sự xói mòn gần như hoàn toàn về lòng tin giữa hai bên đã làm tăng mức độ khó khăn lên mức cao nhất. Thật vậy, nhiều người trong cộng đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ tin rằng ĐCSTQ chưa bao giờ có bất kỳ sự hối hận nào về việc nói dối hoặc che giấu ý định thực sự của mình để đánh lừa đối thủ. Theo quan điểm này, ngoại giao Trung Quốc nhằm trói tay đối thủ và câu giờ để bộ máy quân sự, an ninh và tình báo của Bắc Kinh đạt được ưu thế và thiết lập những thực tế mới trên thực địa. Do đó, để giành được sự ủng hộ rộng rãi từ giới tinh hoa chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, bất kỳ khái niệm nào về cạnh tranh chiến lược được kiểm soát sẽ cần phải bao gồm một quy định của cả hai bên để dựa trên bất kỳ quy tắc mới nào trong nỗ lực thực hiện sự “tin tưởng nhưng vẫn cần xác minh lại” ở cả hai quốc gia.

 

Ý tưởng về cạnh tranh chiến lược được kiểm soát gắn với một quan điểm sâu sắc về trật tự toàn cầu theo khuynh hướng của chủ nghĩa hiện thực. Nó chấp nhận rằng các quốc gia sẽ tiếp tục tìm kiếm an ninh bằng cách xây dựng cân bằng quyền lực có lợi cho họ, đồng thời thừa nhận rằng làm như vậy họ có thể tạo ra tình huống khó xử về an ninh cho các quốc gia khác mà lợi ích cơ bản của họ có thể bị bất lợi bởi hành động của họ. Bí quyết trong trường hợp này là giảm thiểu rủi ro cho cả hai bên khi sự cạnh tranh giữa họ bộc lộ bằng cách cùng nhau xây dựng một số quy tắc hạn chế mà sẽ giúp ngăn chặn chiến tranh. Các quy tắc sẽ cho phép mỗi bên cạnh tranh mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực chính sách và khu vực. Nhưng nếu một trong hai bên vi phạm các quy tắc, thì tất cả các cam kết sẽ bị hủy bỏ, và những điều bất định của một thứ luật rừng sẽ quay trở lại. Bước đầu tiên để xây dựng một khuôn khổ như vậy là xác định một số bước ngay lập tức mà mỗi bên phải thực hiện để tiến hành một cuộc đối thoại thực chất và một số giới hạn cứng mà cả hai bên (và các đồng minh của Hoa Kỳ) phải tôn trọng. Ví dụ, cả hai bên đều phải tránh các cuộc tấn công mạng nhắm vào cơ sở hạ tầng quan trọng. Washington phải quay lại tuân thủ nghiêm ngặt chính sách “một Trung Quốc”, đặc biệt bằng cách chấm dứt các chuyến thăm cấp cao không cần thiết và khiêu khích của chính quyền Trump tới Đài Bắc. Về phần mình, Bắc Kinh phải quay lại mô hình tập trận, triển khai và diễn tập quân sự mang tính khiêu khích gần đây ở eo biển Đài Loan. Ở Biển Đông, Bắc Kinh không được đòi lại hoặc quân sự hóa bất kỳ đảo nào nữa và phải cam kết tôn trọng tự do hàng hải và di chuyển của máy bay mà không bị thách thức; về phần mình, Hoa Kỳ và các đồng minh có thể (và chỉ sau đó) giảm số lượng các hoạt động mà họ thực hiện trên biển. Tương tự, Trung Quốc và Nhật Bản có thể cắt giảm việc triển khai quân sự của họ ở Biển Hoa Đông theo thỏa thuận chung theo thời gian.

 

Nếu cả hai bên có thể đồng ý về những quy định đó, mỗi bên sẽ phải chấp nhận rằng bên kia vẫn sẽ cố gắng tối đa hóa lợi thế của mình trong khi không vi phạm các giới hạn. Washington và Bắc Kinh sẽ tiếp tục cạnh tranh để giành ảnh hưởng chiến lược và kinh tế trên các khu vực khác nhau trên thế giới. Họ sẽ tiếp tục tìm cách tiếp cận qua lại thị trường của nhau và sẽ vẫn thực hiện các biện pháp trả đũa khi quyền tiếp cận đó bị từ chối. Họ vẫn sẽ cạnh tranh trên thị trường đầu tư nước ngoài, thị trường công nghệ, thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Và họ có thể sẽ thực hiện một cuộc chạy đua để giành giật chất xám và tầm ảnh hưởng, trong đó Washington nhấn mạnh tầm quan trọng của nền dân chủ, nền kinh tế mở và nhân quyền và Bắc Kinh nhấn mạnh cách tiếp cận của họ đối với chủ nghĩa tư bản độc tài và cái mà nước này gọi là “mô hình phát triển Trung Quốc”.

 

Tuy nhiên, ngay cả trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng leo thang, vẫn có khả năng hợp tác trong một số lĩnh vực quan trọng. Điều này xảy ra ngay cả giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong thời kỳ gay gắt nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh. Điều này chắc chắn có thể xảy ra bây giờ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, khi mà sự đối đầu không gay gắt như giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trước kia. Bên cạnh việc hợp tác về biến đổi khí hậu, hai nước có thể tiến hành các cuộc đàm phán song phương về kiểm soát vũ khí hạt nhân, bao gồm cả việc hai bên cùng nhau phê chuẩn Hiệp ước Cấm Thử nghiệm Hạt nhân Toàn diện và hướng tới một thỏa thuận về các ứng dụng quân sự có thể chấp nhận được của trí tuệ nhân tạo. Hai nước có thể hợp tác giải trừ hạt nhân của Triều Tiên và ngăn chặn Iran mua vũ khí hạt nhân. Hai nước có thể thực hiện một loạt các biện pháp xây dựng lòng tin trên toàn khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, chẳng hạn như phối hợp ứng phó với thiên tai và các sứ mệnh nhân đạo. Hai nước có thể hợp tác cùng nhau để cải thiện sự ổn định tài chính toàn cầu, đặc biệt là bằng cách đồng ý giãn nợ của các nước đang phát triển bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Và hai nước có thể cùng nhau xây dựng một hệ thống tốt hơn để phân phối vắc xin COVID-19 tại các nước đang phát triển.

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/large_1x/public/images/2021/02/04/RTS2VUPY.JPG?itok=jQjFlBP-

Human rights activists in Hong Kong protest in support of Xinjiang's Uighur community, December 2019 .    Lucy Nicholson / Reuters

 

Danh sách đó còn lâu mới đầy đủ. Nhưng cơ sở lý luận chiến lược cho tất cả các vấn đề đều giống nhau: cả hai quốc gia đều hoạt động trong khuôn khổ cạnh tranh có kiểm soát thì sẽ tốt hơn là không có quy tắc nào cả. Khuôn khổ sẽ cần được đàm phán giữa một đại diện cấp cao được chỉ định và tin cậy của Biden và một người đồng cấp Trung Quốc thân cận với ông Tập; chỉ một kênh cấp cao, trực tiếp như vậy mới có thể dẫn đến những hiểu biết bí mật về những giới hạn khó được cả hai bên tôn trọng. Hai người này cũng sẽ trở thành đầu mối liên lạc khi vi phạm xảy ra, vì họ bị ràng buộc theo thời gian và là người kiểm sát hậu quả của bất kỳ vi phạm nào như vậy. Theo thời gian, mức độ tin cậy chiến lược tối thiểu có thể xuất hiện. Và có thể cả hai bên cũng sẽ phát hiện ra rằng lợi ích của việc tiếp tục hợp tác đối với các mối thách thức toàn cầu chung, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, có thể bắt đầu ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác, mang tính cạnh tranh hơn và thậm chí có khả năng gây ra xung đột trong mối quan hệ giữa hai nước.

 

Sẽ có nhiều người chỉ trích cách làm này là ngây thơ. Tuy nhiên, trách nhiệm của họ là nghĩ ra một cái gì đó tốt hơn. Cả Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện đang tìm kiếm một công thức để quản lý mối quan hệ của họ trong thập kỷ nguy hiểm sắp tới. Sự thật khó là không có mối quan hệ nào có thể được quản lý trừ khi có một thỏa thuận cơ bản giữa các bên về các điều khoản quản lý đó.

 

 

CUỘC CHƠI TIẾP TỤC

 

Các phép đo của sự thành công sẽ là gì nếu Hoa Kỳ và Trung Quốc đồng ý về một khuôn khổ chiến lược chung như vậy? Một dấu hiệu thành công sẽ là nếu đến năm 2030, hai nước tránh được một cuộc khủng hoảng quân sự hoặc xung đột trên eo biển Đài Loan hoặc một cuộc tấn công mạng gây suy nhược. Một công ước cấm các hình thức chiến tranh bằng robot sẽ là một chiến thắng rõ ràng, cũng như Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ hành động ngay lập tức cùng nhau và với Tổ chức Y tế Thế giới, để chống lại đại dịch tiếp theo. Tuy nhiên, có lẽ dấu hiệu thành công quan trọng nhất sẽ là tình huống mà cả hai quốc gia cạnh tranh trong một chiến dịch cởi mở và mạnh mẽ để hỗ trợ toàn cầu cho các ý tưởng, giá trị và cách tiếp cận giải quyết vấn đề mà các hệ thống tương ứng của họ đưa ra - với kết quả vẫn có thể xác định được.

 

Thành công đương nhiên có cả ngàn người cha, nhưng thất bại lại là một đứa trẻ mồ côi. Nhưng ví dụ điển hình nhất về cách tiếp cận thất bại đối với cạnh tranh chiến lược có quản lý là Đài Loan. Nếu ông Tập tính toán rằng ông có thể gọi Washington là trò lừa bịp bằng cách đơn phương phá bỏ bất kỳ thỏa thuận nào đã đạt được với Washington, thì thế giới sẽ thấy mình đang ở trong một thế giới đầy đau đớn. Trong một cuộc thất bại như thế, một cuộc khủng hoảng như vậy sẽ viết lại tương lai của trật tự toàn cầu.

 

Vài ngày trước lễ nhậm chức của Biden, Trần Nhất Tân, Tổng thư ký Ủy ban Các vấn đề Chính trị và Pháp lý Trung ương của ĐCSTQ, đã tuyên bố rằng “sự trỗi dậy của phương Đông và sự suy tàn của phương Tây đã trở thành xu hướng [toàn cầu] và những thay đổi của mối quan hệ quốc tế đang có lợi cho chúng ta”. Trần là người thân tín của ông Tập và là nhân vật trung tâm trong bộ máy an ninh quốc gia vốn thường thận trọng của Trung Quốc, và do đó, sự ngạo mạn trong tuyên bố của ông là đáng chú ý. Trên thực tế, còn một chặng đường dài phía trước trong cuộc đua này. Trung Quốc còn nhiều lỗ hổng ở trong nước mà hiếm khi được báo chí ghi nhận. Mặt khác, Hoa Kỳ luôn có những điểm yếu của mình khi được trưng bày trước công chúng - nhưng quốc gia đã nhiều lần chứng tỏ năng lực của mình trong việc tái tạo và phục hồi. Cạnh tranh chiến lược được kiểm soát sẽ làm nổi bật điểm mạnh và kiểm tra điểm yếu của cả hai cường quốc - và hệ thống tốt nhất có thể giành chiến thắng.

 

------------

 

* KEVIN RUDD, cựu Thủ tướng Úc, hiện là Chủ tịch của Hiệp hội Châu Á, trụ sở tại New York.

 

Nguồn:

 

How to Keep U.S.-Chinese Confrontation From Ending in Calamity 

By Kevin Rudd

March/April 2021

Foreign Affairs   

 

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats