Sự
trỗi dậy của “chính trị phẩm giá”
Tác giả: Francis
Fukuyama
Người dịch: Khắc
Giang, Quang Thái, Bảo Linh
http://nghiencuuquocte.org/2020/10/15/su-troi-day-cua-chinh-tri-pham-gia/
Tại một thời điểm ở khoảng
giữa thập niên thứ hai của thế kỷ 21, chính trị thế giới thay đổi đột ngột.
Thời kỳ từ đầu những năm
1970 cho đến giữa những năm 2000 chứng kiến hiện tượng mà Samuel Huntington gọi
là “Làn sóng thứ ba” của dân chủ hóa, khi số lượng quốc gia xếp vào nhóm dân chủ
bầu cử tăng từ khoảng 35 lên đến 110. Trong thời kỳ này, dân chủ tự do đã trở
thành hình thức chính quyền mặc định cho phần lớn thế giới, ít nhất là về khát
vọng nếu không phải là trên thực tế.
Song song với sự chuyển đổi
về thể chế chính trị là mức tăng trưởng tương ứng về phụ thuộc kinh tế giữa các
quốc gia, hiện tượng chúng ta gọi là toàn cầu hóa. Hiện tượng này
được bảo đảm bởi các thể chế kinh tế tự do như Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại và thể chế kế nhiệm nó, Tổ chức Thương mại Thế giới. Những
thể chế này được bổ sung bởi các hiệp định thương mại khu vực như Liên minh
châu Âu và Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. Trong suốt giai đoạn này, tốc độ
tăng trưởng trong thương mại và đầu tư quốc tế vượt xa tốc độ tăng trưởng GDP
toàn cầu và được coi là động lực chính cho thịnh vượng. Từ năm 1970 đến 2008, sản
lượng hàng hóa và dịch vụ của thế giới tăng gấp bốn lần và hầu như tất cả các
khu vực trên thế giới đều có tăng trưởng, trong khi số người sống trong tình trạng
nghèo cùng cực ở các nước đang phát triển giảm từ 42% tổng dân số (1993), xuống
còn 17% trong năm 2011. Tỉ lệ trẻ em tử vong trước 5 tuổi giảm từ
22% năm 1960 xuống dưới 5% năm 2016.
Tuy nhiên, trật tự thế giới
tự do này không mang lại lợi ích cho tất cả. Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt
là ở các nền dân chủ phát triển, bất bình đẳng gia tăng đáng kể, qua đó nhiều
ích lợi của tăng trưởng chủ yếu rơi vào tầng lớp tinh hoa, vốn được xác định chủ
yếu qua nền tảng giáo dục. Vì tăng trưởng tương quan với khối lượng hàng hóa,
tiền tệ, và mức độ chuyển dịch ngày càng tăng, nhiều thay đổi xã hội mang tính
đột phá xuất hiện. Ởcác nước đang phát triển, những dân quê trước đây không có
điện bỗng dưng thấy mình sống ở các thành phố lớn, được xem TV hoặc kết nối với
Internet bằng điện thoại di động nhan nhản khắp nơi. Thị trường lao động tự điều
chỉnh với các điều kiện mới bằng cách đưa hàng chục triệu người qua các đường
biên quốc tế để tìm kiếm cơ hội tốt hơn cho bản thân và gia đình, hoặc tìm cách
thoát khỏi cuộc sống không thể chịu đựng được ở quê nhà. Tầng lớp
trung lưu mới, đông đảo, trỗi dậy ở các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ,
nhưng công việc họ làm thay thế công việc vốn thuộc về tầng lớp trung lưu cũ
trong thế giới phát triển. Sản xuấtchuyển dần từ châu Âu và Hoa Kỳ sang Đông Á
cũng như các khu vực có chi phí lao động thấp khác. Đồng thời, phụ nữ dần thay
thế đàn ông trong nền kinh tế mới mà dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế, và những
lao động có tay nghề thấp đang bị thay thế bằng máy móc thông minh.
Bắt đầu từ giữa những năm
2000, động lực hướng tới một trật tự thế giới cởi mở và tự do hơn bắt đầu chững
lại, rồiđảo ngược. Sự thay đổi này diễn ra đồng thời với hai cuộc khủng hoảng
tài chính, lần đầu bắt nguồn từ thị trường cho vay dưới chuẩn của
Hoa Kỳ vào năm 2008 vốn dẫn đến cuộc Đại Suy thoái sau đó, và lần thứ hai với mối
đe dọa đối với đồng Euro và Liên minh châu Âu do Hy Lạp vỡ nợ. Trong cả hai trường
hợp, các chính sách của giới tinh hoa dẫn đến những cuộc suy thoái lớn, tỉ lệ
thất nghiệp cao và thu nhập giảm đối với hàng triệu lao động bình thường trên
toànthế giới. Vì Hoa Kỳ và EU là mô hình kiểu mẫu, những cuộc khủng hoảng này hủy
hoại danh tiếng của dân chủ tự do nói chung.
Học giả dân chủ Larry
Diamond mô tả những năm sau các cuộc khủng hoảng trên là “suy thoái dân chủ”,theo
đó tổng số các nền dân chủ đã giảm từ mức đỉnh ở hầu hết các khu vực trên thế
giới. Một số quốc gia chuyên chính, đứng đầu là Trung Quốc và Nga, trở nên tự
tin và quyết đoán hơn trước nhiều: Bắc Kinh bắt đầu quảng bá “mô hình Trung
Hoa” là con đường đi tới phát triển, trong khi Moscow tấn công vào sự suy thoái
tự do ở Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ. Một số quốc gia tưởng như đã trở thành các
nền dân chủ tự do thành công trong những năm 1990 lại đảo ngược, hướng về
phía chuyên quyền, bao gồm Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan và Ba Lan. Mùa
xuân Ả Rập năm 2011 phá vỡ các chế độ độc tài trên khắp Trung Đông, nhưng sau
đó gây thất vọng sâu sắc về kỳ vọng mở rộng dân chủ trong khu vực khi Libya,
Yemen, Iraq và Syria rơi vào nội chiến. Sự trỗi dậy của khủng bố tạo ra các cuộc
tấn công ngày 11 tháng Chín đã không thể bị triệt tiêu sau khi Hoa Kỳ tiến quân
vào Afghanistan và Iraq. Thay vào đó, nó chuyển hóa thành Nhà nước Hồi giáo tự
xưng ISIS, nổi lên như ngọn hải đăng của phong trào Hồi giáo phi tự do và bạo lực
trên khắp thế giới. Điều đáng chú ý tương tự với khả năng chống chịu của ISIS
là rất nhiều người Hồi giáo trẻ từ bỏ cuộc sống tương đối an toàn ở những nơi
khác tại Trung Đông và châu Âu để tới Syria chiến đấu vì lý tưởng.
Đáng ngạc nhiên hơn, và
có lẽ còn quan trọng hơn, là hai bất ngờ lớn vào năm 2016 liên quan tới bầu cử,
khi người Anh bỏ phiếu rời khỏi Liên minh châu Âu và Donald J. Trump được bầu
làm tổng thống Hoa Kỳ. Trong cả hai trường hợp, cử tri đều bận tâm đến các vấn
đề kinh tế, đặc biệt là tầng lớp lao động, những người đối diện với nguy cơ mất
việc làm và giải trừ công nghiệp. Nhưng điều quan trọng không kém là sự phản đối
nhập cư liên tục trên quy mô lớn, vốn được coi là nguyên nhân khiến người bản xứ
mất việc và làm xói mòn bản sắc văn hóa lâu đời. Các đảng chống nhập cư và chống
EU mạnh lên ở nhiều nước phát triển, nổi bật là Mặt trận Quốc gia ở Pháp, Đảng
Tự do ở Hà Lan, Lối đi khác cho nước Đức (AfD) và Đảng Tự do Áo. Trên khắp lục
địa, tồn tại cả nỗi sợ khủng bố Hồi giáo và những tranh cãi về lệnh cấm thể hiện
bản sắc Hồi giáo như burka, niqab và burkini.
Chính trị thế kỷ 20 được
tổ chức dọc theo phổ chính trị tả – hữu, được xác định bởi các vấn đề kinh
tế. Phe cánh tả nhấn mạnh hơn đến bình đẳng trong khi cánh hữu ưu tiên tự do.
Chính trị cấp tiến tập trung vào người lao động, công đoàn và các đảng dân chủ
xã hội tìm kiếm phương thức bảo trợ xã hội và phân phối lợi ích kinh tế hiệu quả
hơn. Ngược lại, cánh hữu chủ yếu quan tâm đến việc giảm quy mô của chính phủ và
thúc đẩy khu vực tư nhân. Trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21, ở một số khu vực
phổ sóng này dường như đang nhường chỗ cho bản sắc. Cánh tả quan tâm ít hơn đến
bình đẳng kinh tế nói chung, và tập trung nhiều hơn vàoviệc đẩy mạnh quyền lợi
của nhiều nhóm yếu thế, bị xem là “bên lề”: người da đen, dân nhập cư, phụ nữ,
người gốc Latin, cộng đồng LGBT, người tị nạn và các nhóm tương tự. Trong khi
đó, phe cánh hữu tái định hình bản thân là những người yêu nước, tìm cách bảo vệ
bản sắc dân tộc truyền thống, vốn thường được liên hệ chặt chẽ với chủng tộc, sắc
tộc hoặc tôn giáo.
Đây là truyền thống lâu đời,
xuất hiện sớm nhất là từ lúc Karl Marx quan niệm đấu tranh chính trị phản ánh
xung đột kinh tế, về cơ bản là nhằm phân chia lại khẩu phần của miếng bánh lợi
ích. Thật vậy, đây là một phần thời đại những năm 2010, khi toàn cầu hóa tạo ra
một nhóm đáng kể những người bị bỏ lại phía sau bởi tăng trưởng chung diễn ra
trên khắp thế giới. Từ năm 2000 đến năm 2016, một nửa số người Mỹ không có thu
nhập thực tế tăng lên; tỉ lệ sản phẩm quốc nội thuộc về nhóm 1% đã tăng từ 9%
GDP năm 1974 lên 24% năm 2008.
Nhưng ngoài lợi ích vật
chất, con người cũng được thúc đẩy bởi những động cơ khác, vốn giải thích rõ
hơn những sự kiện riêng biệt ở hiện tại. Động cơ này có thể gọi là chính
trị phẫn nộ. Trong nhiều trường hợp khác nhau, nhà lãnh đạo chính trị
quy tụ những người ủng hộ mình về với nhận thức rằng phẩm giá của họ đang bị
thách thức, miệt thị, hay coi thường. Sự phẫn nộ này đòi hỏi sự công nhận của
công chúng về phẩm giá của nhóm. Một nhóm bị coi rẻ tìm cách phục hồi phẩm giá
sẽ mang sức nặng cảm xúc lớn hơn nhiều so với những người chỉ đơn thuần theo đuổi
lợi thế kinh tế.
Do đó, tổng thống Nga
Vladimir Putin đã đề cập đến thảm kịch khởi phát từ sự sụp đổ của Liên Xô cũ,
và châu Âu lẫn Hoa Kỳ đã lợi dụng sự suy yếu của nước Nga trong những năm 1990
để đưa NATO đến sát biên giới lãnh thổ. Ông khinh thường thái độ cao ngạo đạo đức
của các chính trị gia phương Tây và không muốn nước Nga bị đối xử -như tổng thống
Obama từng nói – như một chủ thể yếu đuối trong khu vực, mà là một cường quốc.
Viktor Orbán, thủ tướng Hungary, tuyên bố vào năm 2017 rằng việc ông trở lại nắm
quyền vào năm 2010 đánh dấu thời điểm khi “những người Hungary quyết định rằng
chúng ta muốn lấy lại đất nước, chúng ta muốn lấy lại lòng tự trọng và chúng ta
muốn lấy lại tương lai của chính mình”. Chính phủ Trung Quốc của Tập Cận Bình
đã nói rất nhiều về “trăm năm quốc nhục”, và cách Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước
khác đang cố gắng ngăn chặn Bắc Kinh trở lại với vị thế cường quốc mà họ đã từng
đạt được trong thiên niên kỷ vừa qua. Khi kẻ sáng lập al-Qaeda là Osama bin
Laden mới 14 tuổi, mẹ ông ta thấy bin Laden có tình cảm mật thiết với
Palestine, “nước mắt chảy dài trên khuôn mặt khi bin Laden xem ti-vi ở nhà tại Ả
Rập Xê Út”. Sự phẫn nộ của ông ta khi người Hồi giáo bị sỉ nhục sau đó xuất hiện
ở những tín đồ Hồi giáo trẻ tuổi tình nguyện chiến đấu ở Syria, đại diện
cho đức tin mà họ tin rằng đã bị công kích và chà đạp trên khắp thế giới.
Họ hy vọng tái lập vinh quang của nền văn minh Hồi giáo trước đó bằng Nhà nước
Hồi giáo.
Sự phẫn nộ khi mất phẩm
giá cũng là một lực đẩy mạnh mẽ ở các quốc gia dân chủ. Phong trào Bảo vệ Sinh
mạng Người da đen (Black Lives Matter) khởi phát từ một loạt vụ cảnh sát giết hại
người Mỹ gốc Phi được công bố rộng rãi ở Ferguson (Missouri), Baltimore, New
York và các thành phố khác. Phong trào này tìm cách hướng thế giới bên ngoài
chú ý đến thân phận các nạn nhân từ nạn bạo lực tùy tiện do cảnh sát gây ra. Trong
các trường đại học và văn phòng trên khắp nước Mỹ, tấn công tình dục và quấy rối
tình dục được xem là bằng chứng cho thấy đàn ông không nghiêm túc coi phụ nữ là
bình đẳng với mình. Sự chú ý đột ngột hướng đến những người chuyển giới,
nhómdân số trước đây chưa được coi là mục tiêu phân biệt đối xử. Và nhiều người
trong số những cử tri bỏ phiếu cho Donald Trump nhớ về thời kỳ tốt đẹp hơn
trong quá khứ, khi họ có vị trí an toàn hơn trong xã hội của chính mình, và hy
vọng thông qua hành động của mình có thể “biến nước Mỹ vĩ đại như xưa”. Mặc dù
xa cách về thời gian và địa điểm, cảm xúc của những người ủng hộ Putin đối với
sự kiêu ngạo và khinh miệt của giới tinh hoa phương Tây cũng giống với cảm xúc
của các cử tri ở vùng nông thôn Hoa Kỳ, vốn cảm thấy giới tinh hoa ở đô thị hai
bên bờ đại dương và đồng minh truyền thông phớt lờ họ và các vấn đề của họ.
Những kẻ thực hành chính
trị phẫn nộ nhận ra nhau. Sự đồng cảm mà Vladimir Putin và Donald Trump dành
cho nhau không chỉ mang tính cá nhân, mà bắt nguồn từ chủ nghĩa dân tộc chung của hai
người. Viktor Orbán giải thích, “một số lý thuyết mô tả những thay đổi
đang diễn ra ở thế giới phương Tây và sự nổi bật của một tổng thống Mỹ là một
cuộc đấu tranh trên chính trường thế giới giữa giới tinh hoa xuyên quốc gia –
nhóm được gọi là ‘toàn cầu’ – và giới tinh hoa dân tộc yêu nước”,mà tổng thống
Trump là một hình mẫu mới xuất hiện trong tầng lớp này.
Trong mọi trường hợp, dù
là một cường quốc như Nga, Trung Quốc hay nhóm cử tri ở Hoa Kỳ và Anh, một cộng
đồng sẽ tin rằng bản sắc của họ không được công nhận đầy đủ bởi thế giới bên
ngoài (trong trường hợp của một quốc gia) hoặc bởi các thành viên khác trong
cùng xã hội. Những bản sắc đó có thể rất đa dạng, dựa trên quốc gia, tôn giáo,
sắc tộc, khuynh hướng tình dục hoặc giới tính. Chúng đều là những biểu hiện của
một hiện tượng chung, đó là chính trị bản sắc.
Thuật ngữ bản sắc và chính
trị bản sắc mới xuất hiện: bản sắc được nhà tâm lý học
Erik Erikson phổ biến trong những năm 1950, và chính trị bản sắc xuất
hiện trong nhóm chính trị văn hóa vào thập niên 1980 và 1990. Ngày nay, bản
sắc có rất nhiều ý nghĩa, trong một số trường hợp chỉ liên quan đến
các phạm trù hoặc vai trò xã hội, trong những trường hợp khác là thông tin cơ bản
về bản thân (ví dụ như “danh tính [bản sắc] của tôi đã bị lấy cắp”). Khi sửdụng
theo nghĩa này, bản sắc luôn tồn tại.
Trong cuốn sách này, tôi
áp dụng khái niệm bản sắc theo một nghĩa cụ thể để giúp chúng
ta hiểu tại sao nó lạiquan trọng đối với chính trị đương đại. Bản sắc phát
triển trước tiên từ sự khác biệt giữa nội ngã đích thực (true
inner self) của một cá nhân và một thế giới bên ngoài bao gồm các quy luật
và quy tắc xã hội, những quy luật và quy tắc vốn không công nhận đầy đủ phẩm
giá bên trong đó. Trong suốt lịch sử loài người, cá nhân thường bất hòa với xã
hội. Nhưng chỉ thời hiện đại mới xuất hiện quan điểm cho rằng nội ngã đích thực
mang giá trị nội tại, và xã hội bên ngoài đã sai lầm một cách có hệ thống và
không công bằng khi đánh giá nó. Nội ngã không thể bị ép buộc tuân thủ các quy
tắc của xã hội, mà chính xã hội cần phải thay đổi.
Nội ngã là nền tảng phẩm
giá con người, nhưng bản chất của phẩm giá đó mang tính biến thiên và thay đổi
theo thời gian. Trong nhiều nền văn hóa sơ khai, chỉ có một số ít cá nhân có phẩm
giá, thường là những chiến binh sẵn sàng mạo hiểm mạng sống trên chiến trường.
Trong các xã hội khác, phẩm giá là thuộc tính của tất cả loài người, dựa trên
giá trị cố hữu của họ, đó là con người có nhận thức. Và trong các trường hợp
khác, phẩm giá thuộc về thành viên củamột nhóm lớn hơn có chung trải nghiệm và
nhận thức.
Cuối cùng, ý thức bên
trong của phẩm giá tìm kiếm sự công nhận. Việc tôi có ý thức về giá trị của
mình là không đủ nếu người khác không công khai thừa nhận nó, hoặc tệ hơn, nếu
người khác coi thường hay không thừa nhận sự tồn tại của tôi. Lòng tự trọng nảy
sinh từ sự kính trọng của người khác. Bởi loài người khao khát sự công nhận một
cách tự nhiên, ý thức hiện đại về bản sắc phát triển nhanh chóng thành chính trị
bản sắc, theo đó các cá nhân đòi hỏi sự công nhận của công chúng về giá trị của
mình. Do đó, chính trị bản sắc bao trùm một phần lớn các cuộc đấu tranh chính
trị của thế giới đương đại, từ các cuộc cách mạng dân chủ cho đến các phong
trào xã hội mới, từ chủ nghĩa dân tộc và Hồi giáo đến chính trị tại các
trường đại học ở Mỹ thời hiện đại. Thật vậy, triết gia Hegel cho rằng cuộc
đấu tranh để được công nhận là động lực tối thượng của lịch sử loài người, và
là chìa khóa để thấu hiểu sự ra đời của thế giới hiện đại.
Trong khi bất bình đẳng
kinh tế, phát sinh từ toàn cầu hóa của khoảng 50 năm qua, là yếu tố chính giải
thích cho chính trị đương đại, nỗi bất bình về kinh tế lại trở nên gay gắt hơn
nhiều khi gắn liền với cảm giác phẫn nộ và bị coi thường. Trên thực tế, phần lớn
những gì chúng ta cho là động cơ kinh tế thực ra không phản ánh trực diện khao
khát về của cải và nguồn lực, mà là thực tế rằng tiền được coi là một biểu hiện
của địa vị và để mua sự tôn trọng. Lý thuyết kinh tế hiện đại được xây dựng
xung quanh giả định rằng con người là những cá nhân duy lý, muốn tối đa hóa “lợi
ích” của bản thân – tức là giá trị vật chất – và chính trị đơn giản là một phần
mở rộng của hành vi tối đa hóa ích lợi đó. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn giải
thích chính xác hành vi của con người đích thực trong thế giới đương đại, chúng
ta phải mở rộng hiểu biết về động cơ của con người vượt ra ngoài mô hình kinh tế
đơn giản này, [mô hình] vốn đã chi phối phần lớn diễn ngôn của nhân loại. Không
ai tranh cãi về việc con người có khả năng hành xử duy lý, hay con người là những
cá nhân tư lợi tìm kiếm của cải và nguồn lực to lớn hơn. Nhưng tâm lý con người
phức tạp hơn nhiều so với mô hình kinh tế giản lược. Để hiểu được chính trị bản
sắc đương đại, chúng tacần lùi lại và tìm kiếm hiểu biết sâu sắc và phong phú
hơn về động cơ và hành vi của con người. Nói cách khác, chúng ta cần một lý
thuyết hợp lý hơn về tâm hồn con người.
***
Bài viết lấy từ chương 1 cuốn Bản Sắc – Nhu Cầu Phẩm Giá Và Chính Trị Phẫn Nộ (Identity: The Demand for Dignity and
the Politics of Resentment) của tác giả Francis Fukuyama, do Omega+ ấn hành tại
Việt Nam.
Francis Fukuyama là nhà triết học, chuyên gia kinh tế
chính trị và tác giả người Mỹ, nổi tiếng với luận đề “Sự
cáo chung của lịch sử“. Ông từng đạt giải Sách hay nhất năm 2018 của tờ
The Times (Anh) và Sách chính trị hay nhất năm 2018 do Financial Times bình chọn.
Hình: Báo Thanh Niên.
http://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2020/10/ban-sac.png
No comments:
Post a Comment