Monday, 19 October 2020

NƯỚC MỸ CHÀO ĐÓN NGƯỜI NHẬP CƯ? (NDC Giang - Luật Khoa)

 


NỘI DUNG :

 

Kỳ 1 : Nước Mỹ thời lập quốc của những người da trắng tự do

Kỳ 2 : Nền dân chủ của người da trắng   

Kỳ 3 và hết:  Nước Mỹ chào đón người nhập cư? Không hẳn.

.

===============================================

.

.

Nước Mỹ thời lập quốc của những người da trắng tự do

NDC Giang  -  Luật Khoa

17/10/2020

https://www.luatkhoa.org/2020/10/nuoc-my-thoi-lap-quoc-cua-nhung-nguoi-da-trang-tu-do/

 

Khi nói về nước Mỹ, tôi hay nghe nhiều người nói về giấc mơ Mỹ, về tự do, dân chủ, bình đẳng, về sự đa sắc tộc/đa văn hóa, và cơ hội cho những ai biết cố gắng vươn lên. Tất cả những điều này tạo nên một hình ảnh nước Mỹ đặc biệt ngoại lệ (exceptional).

 

Đối với tôi, nước Mỹ không phải đặc biệt ngoại lệ. Cũng như nhiều nước phát triển khác, nước Mỹ chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất công và đầy khoảng cách khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa những người có quyền lực và những người không có quyền lực.

Trong loạt ba bài viết này, tôi muốn chỉ ra đằng sau những điều được cho là “đặc biệt” là một nước Mỹ được định hình trên quyền lợi chính trị và kinh tế của người da trắng. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là nước Mỹ không có tiềm năng. Tôi tin rằng tiềm năng của nước Mỹ nằm ở việc đấu tranh để biến lý tưởng thành hiện thực.

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/4th-of-July-1819-Philadelphia-John-Lewis-Krimmel-1024x590.jpg

Ảnh: Getty Images.

 


 

Kỳ 1:

Nước Mỹ thời lập quốc của những người da trắng tự do

 

Nước Mỹ hay được ví là đất nước của những người nhập cư đi tìm tự do.

 

Câu chuyện quen thuộc kể về nước Mỹ là hình ảnh những người Pilgrims hay Puritans đi tìm tự do về tôn giáo. Thomas Paine, trong quyển “Common Sense” viết năm 1776 đã nói rằng “Thế giới mới này [nước Mỹ] là vùng đất tị nạn của những người yêu chuộng quyền tự do dân sự và tự do tôn giáo đã bị bắt bớ ở khắp châu Âu.”[1] Và có lẽ minh chứng hùng hồn nhất cho sự tự do, dân chủ và bình đẳng của nước Mỹ là Đạo luật Nhân quyền (Bill of Rights) ban hành năm 1791. Gọi là đạo luật nhưng thực ra nó là tập hợp của 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Mỹ, quy định về nhân quyền.

 

Đạo luật Nhân quyền đúng là một lý tưởng về quyền công dân của nước Mỹ. Câu hỏi là ai được xem là công dân.

 

Theo luật nhập tịch đầu tiên của Mỹ năm 1790 (Naturalization Act 1790) thì chỉ có những người da trắng tự do, ở Mỹ hai năm mới được nhập tịch Mỹ [2]. Như vậy, theo luật này, những người da trắng đến Mỹ theo dạng lao động có thời hạn (indentured servants), những người nô lệ da đen, ngay cả những người da đen tự do, và dĩ nhiên là cả người đến từ châu Á đều không thể trở thành người Mỹ. Như vậy, khi Đạo luật Nhân quyền được ban hành thì nó không dành cho số đông đang sống tại Mỹ.

 

Nói vậy là vì vào thời điểm đó không phải ai cũng giàu có để có thể tự bỏ tiền đến Mỹ với tư cách là người tự do. Chưa kể trong thời kỳ của 13 thuộc địa ban đầu, lực lượng lao động bị thiếu trầm trọng nên việc nhập khẩu lao động là rất cần thiết. Ví dụ như ở Virginia có một hệ thống cấp đất theo đầu người (Headright system). Ai trả chi phí đem người lao động nhập cư đến Virginia thì sẽ được cấp cho 50 acre đất trên một đầu người.

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/intenditure-servitude.png

Cảnh nô lệ trồng thuốc lá tại Jamestown, Virginia trong một cuốn sách giáo khoa năm 1878. Ảnh: Wikimedia.

 

Như vậy, ngoài một bộ phận dân di cư tìm tự do tôn giáo, thì có một bộ phận không nhỏ (từ 1/2 đến 2/3 tổng số người di dân da trắng) [3] sang Mỹ bằng con đường lao động theo thời hạn (indentured servitude).  Những người này dù không bị xem là nô lệ nhưng họ cũng không phải là người tự do cho đến khi hoàn tất hợp đồng (thường là từ 4-7 năm). Trong khoảng thời gian đó, họ mất đi quyền tự do cơ bản và điều kiện làm việc cũng rất khắc khổ [4]. Thêm nữa thời hạn lao động của họ có thể bị kéo dài nếu họ vi phạm luật [5]. Do đó, đối với những người nghèo nhập cư từ châu Âu, con đường đến Mỹ trước hết không phải là con đường đến tự do [6].

 

Có thể đến đây bạn sẽ nghĩ rằng sau 4-7 năm thì những người lao động này sẽ thành người da trắng tự do và công dân Mỹ. Thế nhưng, ước tính chỉ có 40% những người lao động này sống sót để có thể hưởng được thành quả “tự do” này. Chưa kể sau khi được tự do thì thủ tục để lãnh đất cũng không đơn giản và thường kéo dài, làm cho số người hoàn thành được thời hạn lao động, vốn đã rất ít ỏi, từ bỏ quyền lấy đất [7].

 

Có thể nói ngay từ thời điểm ban đầu, việc khuyến khích nhập cư là vì ước muốn phát triển kinh tế và mở rộng lãnh thổ của những người cầm quyền lúc đó. Tuy nhiên, ước muốn này lại hay được ngụy biện dưới ngôn từ của tự do. Bản thân Thomas Jefferson cũng cho rằng những người nhập cư từ châu Âu được hưởng thụ lợi ích của tự do và phủ nhận vai trò của họ trong việc “mở mang lãnh thổ” (và dĩ nhiên góp phần trong việc lấy dần đất của người Mỹ Bản Địa) [8].

 

Jefferson mơ về một nền dân chủ nông nghiệp (agrarian democracy) dựa trên chế độ lao động theo thời hạn này (indentured servitude), khi người lao động có thể tự tồn tại dựa vào đất được phân sau khi họ được tự do. Tuy nhiên, điều này đã không thể xảy ra vì chế độ lao động có thời hạn cũng có một bất cập lớn: đó là khi người lao động kết thúc thời hạn lao động và được phân đất (tức là bắt đầu có quyền lợi chính trị) thì xung đột giữa những người này và những người chủ đất mà trước đó là chủ của họ bắt đầu (điển hình là cuộc nổi loạn Bacon’s Rebellion).

 

Do đó, lao động nô lệ được ưa chuộng hơn vì hai lý do: thứ nhất, tầng lớp thống trị khỏi phải lo lắng về sự nổi dậy của một tầng lớp mới được tự do và thứ hai, tạo nên một xã hội mà màu da trắng đồng nghĩa tự do [9].

 

Đến đây đã có thể thấy, trước khi chế độ nô lệ trở nên phổ biến ở Mỹ, người lao động nhập cư da trắng cũng không dễ gì trở thành công dân Mỹ để hưởng thụ được những gì mà bản Đạo luật Nhân quyền nêu ra. Có thể thấy cái cốt lõi của tự do của nước Mỹ không dành cho người da trắng ở giai cấp thấp. Đó là chưa nói đến việc tư tưởng “tự do” của nước Mỹ được đặt trên nền móng của sự mất tự do của người nô lệ da đen.

 

Bài diễn văn nổi tiếng của một người đã từng làm nô lệ, Frederick Douglass, nói lên rất rõ sự mâu thuẫn này. Trong bài diễn văn “What to the Slave is the Fourth of July?” (Ngày Quốc khánh Mỹ có ý nghĩa gì đối với người nô lệ?), Douglass lên tiếng nói về tính “đạo đức giả” của nước Mỹ (“hypocrisy of the nation”).

 

Ông nói, người Mỹ luôn nói về độc lập và tự do, trong khi sự tự do chính trị và sự công bằng được nói đến trong Tuyên ngôn Độc lập không hề dành cho người da đen. [10] Có thể thấy, cái cốt lõi của nước Mỹ khi lập quốc là tự do và bình đẳng cho một số người thuộc tầng lớp trên của xã hội mà thôi.

 

Kỳ tới: Nền dân chủ của người da trắng


 

Chú thích:

 

[1] Câu nguyên văn: “This new world has been the asylum for the persecuted lovers of civil and religious liberty from every part of Europe.” Xem quyển Common Sense tại đây.

 

[2] Xem nguyên văn luật trong Thư Viện Quốc Hội tại đây.

 

[3] David W Galenson, “The Rise and Fall of Indentured Servitude in the Americas: An Economic Analysis,” Journal of Economic History  (1984): 1.

 

[4] Ibid., 4.

 

[5] Xem thêm Book IV trong quyển American Slavery, American Freedom: The Ordeal of Colonial Virginiacủa Edmund S. Morgan.

 

[6] Ali Behdad, A Forgetful Nation: On Immigration and Cultural Identity in the United States (Duke University Press, 2005), 26-27.

 

[7] Elodie Peyrol-Kleiber, “Starting Afresh: Freedom Dues Vs Reality in 17th Century Chesapeake,” Mémoire (s), identité (s), marginalité (s) dans le monde occidental contemporain. Cahiers du MIMMOC, no. 19 (2018). https://journals.openedition.org/mimmoc/2777, đoạn 18.

 

[8] Ali Behdad, A Forgetful Nation: On Immigration and Cultural Identity in the United States (Duke University Press, 2005), 26-27.

 

[9] Xem thêm bài viết về lao động nhập cư cúa The Atlantic: “American Cannot Bear to Bring Back Indentured Servitude”, March 28, 2018.

 

[10] Bản tiếng Anh Douglass viết là: “Are the great principles of political freedom and of natural justice, embodied in that Declaration of Independence, extended to us [enslaved people]?”.

 

=====================================================

.

.

Kỳ 2 :

Nền dân chủ của người da trắng   

NDC Giang  -  Luật Khoa

18/10/2020

https://www.luatkhoa.org/2020/10/toi-nghi-gi-khi-nghi-ve-nuoc-my-ky-2-nen-dan-chu-cua-nguoi-da-trang/

 

Vào thời kỳ lập quốc của Hoa Kỳ, nếu quyền công dân chỉ dành cho người da trắng tự do thì dân chủ cũng chỉ dành cho người da trắng tự do.

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/us-congress.jpg

Quang cảnh một cuộc họp của Hạ viện Mỹ, chưa rõ thời điểm. Nguồn: house.gov.

 

Khi bàn đến tính dân chủ của xã hội Mỹ, có lẽ phải nhắc đến quyển “Democracy in America” (Nền dân trị Mỹ) của Alexis de Tocqueville, khen ngợi chế độ dân chủ – cộng hòa của nước Mỹ. Ông cho rằng nước Mỹ được như vậy là do ba yếu tố: điều kiện tự nhiên và lịch sử đặc biệt của nước Mỹ, luật pháp, và tính cách và tập quán của con người. [1]

 

Điều đáng nói là khi khen ngợi nước Mỹ, Tocqueville suy nghĩ theo chiều hướng phân biệt chủng tộc khi ông cho rằng sự hình thành của nền dân chủ là do văn hóa và truyền thống của một cộng đồng châu Âu có văn hóa vượt trội [2]. Tocqueville cũng có phê phán chế độ nô lệ nhưng lại tập trung vào khía cạnh kinh tế mà bỏ qua sự hình thành của mối quan hệ giữa chủng tộc giữa người da trắng và người da đen, cũng như hệ thống luật pháp áp bức đã tạo nên sự bất bình đẳng trong xã hội [3].

 

Thêm nữa, theo Tocqueville, Người Mỹ Bản Địa (Native Americans) suy tàn là tất yếu vì họ không có kiến thức về nông nghiệp và không biết canh tác đất [4]. Tư tưởng này có điểm tương đồng với tư tưởng của John Locke về vấn đề đất đai và tài sản. Tư tưởng của John Locke là một trong hai tư tưởng quan trọng có ảnh hưởng đến sự hình thành của nước Mỹ. (Tư tưởng còn lại là về việc hạn chế quyền lực của người cầm quyền, biểu hiện qua Đại hiến chương Magna Carta).

 

Locke tin rằng đất đai nên được “inclosed” (khoanh vùng lại cho sở hữu tư nhân) [5] và đất đai sẽ không có giá trị nếu không được canh tác (cultivated) [6]. Sức lao động (labor) thể hiện qua hành động canh tác là thứ tạo ra giá trị cho mảnh đất. Do đó, có thể hiểu tại sao những người di dân đầu tiên đến nước Mỹ xem việc săn bắt của người Mỹ Bản Địa là phản lao động, như lời của nhà sử học David Roediger thì là “opposite of labor.” [7]

 

Như vậy việc sở hữu đất và canh tác đất để tạo lợi nhuận của người da trắng được xem là vượt trội (superior) so với việc không chiếm đất làm sở hữu cá nhân (private property) và việc sống trong thiên nhiên của người Mỹ Bản Địa. Bởi vì người Mỹ Bản Địa không chiếm đất làm sở hữu tư nhân và canh tác nên đất đai ở Mỹ được những người nhập cư da trắng xem là đất trống (vacant), cộng thêm việc xem lối sống của người Mỹ Bản Địa là mọi rợ (savage) dẫn đến việc chiếm đất mà người Mỹ Bản Địa đang sinh sống lại được xem là “tốt cho nhân loại” (“benefit for humanity”) [8].

 

Như vậy, sự dân chủ dựa trên sở hữu tư nhân (private property) và bảo vệ tài sản cá nhân (Tu chính án thứ Năm) là một quá trình chiếm đất một cách thô bạo mà Tocqueville nói riêng và nước Mỹ nói chung cố tình quên đi.

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/tocqueville.png

‘Nền dân trị Mỹ’ mà Tocqueville ca ngợi vào thế kỷ XIX không có chỗ cho người da đen. Ảnh: LK.

 

Và dân chủ ở Mỹ trong thời lập quốc cũng không dành cho phụ nữ da trắng. Mặc dù luật nhập tịch năm 1790 không cấm phụ nữ da trắng trở thành công dân nhưng phụ nữ lúc đó không có quyền bầu cử (cho đến tận năm 1920). Chưa kể luật này thừa nhận con của công dân Mỹ sinh ở nước ngoài là công dân Mỹ, trong khi lại không thừa nhận quyền công dân của người sinh ra ở nước ngoài nếu người cha không phải là người thường trú (resident) ở Mỹ. Điều này có nghĩa là quyền công dân chỉ được thừa hưởng từ người cha chứ không phải người mẹ. Như vậy mặc dù phụ nữ Mỹ có thể được xem là công dân về mặt luật pháp nhưng trên thực tế thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. 

 

Khi nước Mỹ chính thức được thành lập vào năm 1776, Abigail Adams đã viết thư cho chồng mình là John Adams (lúc đó đang là nghị sĩ Quốc hội, và sau này trở thành tổng thống thứ hai của nước Mỹ) dặn dò ông hãy luôn nhớ đến những người phụ nữ. Bà muốn ông nhớ đến phụ nữ khi tham gia vào việc ban hành luật pháp cho đất nước mới, khuyên ông không nên giao cho “Các Đức Ông Chồng” (nguyên bản là bà viết hoa từ “Husbands”) quyền lực tuyệt đối vì đàn ông sẽ trở thành bạo chúa nếu họ có thể, và cảnh báo rằng phụ nữ có thể nổi loạn nếu như họ không có tiếng nói [9]. Lúc đó John Adams bác bỏ những lời đề nghị trong lá thư mà ông cho là xấc xược (“saucy”) của bà. Như vậy, khởi thủy của nền dân chủ ở Mỹ chỉ dành cho người đàn ông da trắng tự do.

 

Trong một đất nước trong thời kỳ lập quốc mà có: 

 

·         1/5 dân số không có quyền công dân (người nô lệ);

 

·         1/2 đến 2/3 trên tổng số người da trắng nhập cư là lao động theo thời hạn (indentured servants) (như đã nói ở trên) cũng không có quyền công dân (sau này khi tỷ lệ này giảm xuống, và lực lượng lao động được thay thế bằng người nhập cư từ châu Á, chủ yếu là người Trung Quốc, thì người nhập cư từ Trung Quốc cũng không được trở thành công dân mãi đến sau 1943);

 

·         Trong số còn lại có thể có quyền công dân thì phụ nữ lại không được đi bầu; 

thì nước Mỹ lập ra dân chủ là cho ai thì đã rõ. 

 

Thế những thành tựu về tự do, dân chủ và bình đẳng (ở một mức độ nào đó) của nước Mỹ cho đến ngày hôm nay là do đâu mà có? Là do sự đấu tranh không ngừng của những người bị áp bức. 

 

Nhờ đấu tranh mà chế độ nô lệ mới bị bãi bỏ, người Da Đen được xem là công dân Mỹ và được đi bầu. Nhờ đấu tranh mà phụ nữ mới có quyền bầu cử. Nhờ Phong trào Dân quyền mà người Da Đen mới có quyền bình đẳng. Đó là lý do tại sao Nikole Hannah – Jones, nhà báo được giải Pulitzer năm 2020, đã viết rằng “Nước Mỹ là một quốc gia được xây dựng trên nền tảng của lý tưởng và của cả sự dối trá.” (“The United States is a nation founded on both an ideal and a lie.”) Hannah-Jones lập luận rằng chính người Da Đen đã đấu tranh để biến những lý tưởng của nước Mỹ thành hiện thực. 

 

Rõ ràng là thế. 

 

Nước Mỹ đã và đang là đất nước của người da trắng. Khi Tổng thống Lincoln bị ám sát, Phó Tổng thống Andrew Jackson đã tuyên bố rằng “Đây là đất nước của người da trắng và ngày nào tôi làm tổng thống thì chính quyền này sẽ là chính quyền của người da trắng.” (“This is a country for white men, and by God, as long as I am President, it shall be a government for white men”)

 

Đến ngày giờ này, chính vì nước Mỹ vẫn là đất nước của người da trắng, nên khi cơn đại dịch COVID-19 xảy ra, ta thấy rõ sự bất bình đẳng trong một xã hội phân tầng theo màu da: những người được gọi là “essential workers” vẫn phải đi làm trong các nhà máy thịt, trong các siêu thị, những người giao hàng đa số vẫn là người da màu. Những người làm ở bệnh viện (lao công, quét dọn, y tá) cũng chủ yếu là người da màu và phụ nữ.

 

Kỳ 3 và hết: Chào đón người nhập cư? Không hẳn.

 


 

Chú thích:

 

[1] A Forgetful Nation: On Immigration and Cultural Identity in the United States, 53.

 

[2] Ibid., 58.

 

[3] Ibid., 66.

 

[4] Ibid., 63.

 

[5] Trích câu nói của Locke về vấn đề này: ““What would a man value 10,000 acres of excellent land, ready cultivated, and well-stocked with cattle, in the middle of the inland parts of America, where he had no hopes to draw money to him by the sale of the product? It would not be worth the inclosing, and we should see him give up again to the wild common”.

 

[6] Trích câu nói của Locke: “Let anyone consider, what the difference is between an acre of land planted with tobacco or sugar, sown with wheat or barley; and an acre of the same land lying in common, without any husbandry upon it, and he will find that the improvement of labour makes the far greater part of the value.” Xem tại đây

 

[7] David R Roediger, How Race Survived Us History: From Settlement and Slavery to the Obama Phenomenon, Verso, 2019, 24.

 

[8] Ibid., 25.

 

[9] Nguyên văn là: “I long to hear that you have declared an independency—and by the way in the new Code of Laws which I suppose it will be necessary for you to make I desire you would Remember the Ladies, and be more generous and favorable to them than your ancestors. Do not put such unlimited power into the hands of the Husbands. Remember all Men would be tyrants if they could. If perticuliar care and attention is not paid to the Ladies we are determined to foment a Rebellion, and will not hold ourselves bound by any Laws in which we have no voice, or Representation.” Có thể đọc bức thư của bà ở đây.

 

---------------------------------------

.

.

19/10/2020

https://www.luatkhoa.org/2020/10/nuoc-my-chao-don-nguoi-nhap-cu-khong-han/

 

.

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/UPF-021918-Immigration-timeline-3-popup-1024x597.jpg

 

Nước Mỹ vẫn luôn được nghĩ đến như một đất nước chào đón người nhập cư, mở cửa cho những người bị đàn áp. Nhưng trong suy nghĩ đại chúng về nước Mỹ, ít thấy nhắc đến sự đóng góp của người Da Đen hay của người nhập cư da màu cho sự phát triển của nước Mỹ, trong khi sự thịnh vượng của nước Mỹ một phần lớn là do bóc lột sức lao động của họ.

 

Đến tận bây giờ, những thành tựu của lý tưởng tự do, dân chủ và bình đẳng vẫn được xem là xuất phát từ sự “đặc biệt” của nước Mỹ hơn là từ sự đấu tranh của người Da Đen. Và đến bây giờ, người nhập cư vẫn bị xem là mối hiểm họa cho một bộ phận không ít người Mỹ (đối với người Mỹ sinh ra ở đây và cả người Mỹ có gốc nhập cư nhưng đã nhập tịch). Trong lịch sử dựng nước, nước Mỹ là đất nước của người da trắng. Đất nước này hoàn toàn không chào đón người nhập cư như ta tưởng.

 

Như vậy sự đa sắc tộc của nước Mỹ từ đâu mà có? Đó là từ việc nước Mỹ bành trướng lãnh thổ, từ nhu cầu về lao động để phát triển kinh tế, và từ các cuộc chiến tranh mà nước Mỹ tham gia lẫn khởi xướng.

 

Cuộc chiến giữa Mỹ và Mexico (1846-1848) là một ví dụ. Cuộc chiến này dẫn đến việc sáp nhập (annexation) phần lớn lãnh thổ (và dĩ nhiên là người dân) phía Bắc của Mexico vào Mỹ. Sau cuộc chiến, Hiệp định Guadalupe Hidalgo cho phép người Mexico trong lãnh thổ sáp nhập trở thành công dân Mỹ. Nếu chiếu theo luật Nhập Tịch (Naturalization Act) 1790, quy định chỉ có người da trắng tự do mới được trở thành công dân, thì hiệp định Guadalupe Hidalgo xem người Mexico là người da trắng [1].

 

Nhưng như vậy không có nghĩa là nước Mỹ chào đón người Mexico. Sự phân loại về chủng tộc này liên quan mật thiết đến giai cấp và quyền sở hữu đất. Khi tỷ lệ những người Mexico lao động tay chân hoặc không sở hữu đất tăng lên thì người Mexico dần được xem là da màu [2]. Thêm nữa, mặc dù luật pháp xem người Mexico là “da trắng”, nhưng về mặt xã hội và văn hóa, họ vẫn bị xem là da màu (colored), cho đến năm 1930 thì được xem là một chủng tộc riêng [3].

 

Niềm tin vào một nước Mỹ da trắng đồng nhất vẫn còn đó. Shelley Streeby, trong quyển “American Sensations”, đã chỉ ra rằng trong văn hóa đại chúng (thể hiện tư duy đại chúng), người ta đã đặt câu hỏi về khả năng đồng hóa dân tộc khác (cả người Ailen và người Mexico) vào nước Mỹ. Streeby còn chỉ ra rằng việc sáp nhập lãnh thổ, mặc dù đem lại lợi ích kinh tế, luôn tạo ra sự lo ngại và bất an về viễn cảnh phải hòa vào với dân tộc khác.

 

Nói tóm lại, cái tinh thần muốn chiếm đất nhưng lại không muốn sáp nhập dân tộc mới đã có ở Mỹ từ rất sớm như vậy. Sau này, ta lại thấy tư tưởng này lặp lại, sau khi nước Mỹ thắng trong cuộc chiến với Tây Ban Nha năm 1899 và giành được quyền kiểm soát Cuba, Puerto Rico, Guam và Philippines (giành quyền kiểm soát nhưng không sáp nhập).

Nhu cầu về lao động góp một phần không nhỏ vào sự đa sắc tộc ở Mỹ. Trong thời điểm khởi đầu, người nhập cư từ Trung Quốc đến Mỹ khi nhu cầu lao động tăng cao khi vàng được tìm thấy ở California, và khi miền Viễn Tây nước Mỹ bắt đầu phát triển [4].

 

Trong Coolies and Cane, Moon-Ho Jung lập luận rằng nếu trước cuộc Nội chiến (1860 – 1865) , các chủ đồn điền ở miền Nam ra sức phản đối đường dây mang lao động culi từ Trung Quốc đến Mỹ, thì sau cuộc nội chiến, lao động culi được xem là giải pháp cho miền Nam nước Mỹ, còn lao động nhập cư từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines được chiêu mộ bởi những người chủ đồn điền ở Hawaii [5].

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/UPF-021918-Immigration-timeline-2-medium.jpg

Công nhân đào vàng người Trung Quốc ở California năm 1852. Ảnh: The Granger Collection.

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/chinese_railroad_workers_sierra_nevada-138269c9fe1b1c5e4186c79f1a0d4eacd1e98706-s1200-1024x768.jpg

Trong số những công nhân đã xây nên tuyến đường sắt xuyên lục địa của Mỹ vào cuối thập niên 1860, 90% là người Trung Quốc. Họ thường bị gọi là culi (coolie) Ảnh: Joseph Becker/Library of Congress.

 

Sự mâu thuẫn của nước Mỹ là họ luôn cần lao động nhập cư nhưng lại bất an khi thấy nhiều người nhập cư ở Mỹ. Chỉ cần nhìn sơ qua lịch sử luật di trú của Mỹ là có thể thấy điều này.

 

Luật di trú năm 1882 cấm người Trung Quốc nhập cư vào Mỹ (luật này mãi đến năm 1943 mới được bãi bỏ [6]. Một sắc lệnh hành pháp ban hành năm 1907 cấm người Nhật nhập cư vào Mỹ từ Hawaii. Chính quyền Mỹ lúc đó không thể ban hành luật cấm người Nhật như cấm người Trung Quốc, do Mỹ muốn giữ quan hệ thân thiện với Nhật (lúc đó đang là một nước hùng mạnh). Để hạn chế người Nhật nhập cư, Mỹ đã ký kết “Thoả thuận của các Quý ông” (Gentlemen’s Agreement) với Nhật, theo đó, nước Nhật đồng ý hạn chế người di cư bằng cách không cấp hộ chiếu cho người lao động di cư [7].

 

Đối với người Philippines, vì nước này thuộc bảo hộ của Mỹ nên người Philippines được quyền sang Mỹ; và trong khi lao động người Trung Quốc và người Nhật không thể nhập cư, làm giảm lực lượng lao động, thì lao động Philippines trở thành một nguồn lao động quan trọng [8]. Cách để ngăn chặn nhập cư từ Philippines là cho Philippines độc lập. Tác giả Mae Ngai trong cuốn “Impossible Subjects: Illegal Aliens and the Making of Modern American” lập luận rằng việc Mỹ nghĩ đến việc độc lập của Philippines là để giải thoát Mỹ khỏi vấn đề dân nhập cư đến từ nước này [9] (kết quả là đạo luật Hare-Hawes-Cutting Act năm 1932).

 

Thêm một ví dụ nữa là luật di trú năm 1924 (Johnson-Reed Act) sửa lại Emergency Quota Law 1921.

 

Luật năm 1921 thiết lập hạn ngạch cho người nhập cư từ một quốc gia là 3% số dân của nhóm người đó đang ở Mỹ, dựa theo thống kê dân số gần nhất là năm 1910. Tuy nhiên, vấn đề là nếu theo thống kê 1910 thì người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu chiếm 45% hạn ngạch, và mặc dù luật đã cắt bớt 20% hạn ngạch cho dân nhập cư từ vùng này thì con số này vẫn cao một cách không chấp nhận được. Thế nên những người ủng hộ dân bản xứ (nativists) mới có lập luận cho rằng phải dựa theo thống kê dân số năm 1870 để thiết lập hạn ngạch vì thống kê năm 1870 thì số lượng người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu rất ít, như vậy sẽ đảm bảo được dòng máu bản xứ (native stock) của người Mỹ.

 

Luật di cư năm 1924 được thông qua, thiết lập hạn ngạch dựa trên thống kê dân số 1870 (do một lập luận khác của John Trevor, không mang thái độ kỳ thị chủng tộc rõ ràng như lập luận ban đầu và vẫn giữ được cái tinh thần giảm người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu đó) [10].

 

Nói tóm lại, nước Mỹ không chào đón người nhập cư. Lúc cần thì đem người nhập cư đến và khi khủng hoảng hay khó khăn thì lại đuổi họ đi [11].

 

Thật vậy, khi cuộc khủng hoảng xảy ra năm 1930 (Great Depression) thì khoảng hai triệu người Mexico, 60% trong số đó là người Mỹ gốc Mexico, bị đuổi về Mexico [12] vì người Mỹ tin rằng những người nhập cư lấy đi công việc của họ [13]– một lập luận mà đến giờ ta vẫn còn nghe thấy.

 

Người nhập cư da màu dù ở Mỹ bao đời vẫn không được xem là người Mỹ. Vậy nên mỗi khi có khủng hoảng, họ lại bị coi là một hiểm họa.

 

Người nhập cư da màu dù ở Mỹ bao đời vẫn không được xem là người Mỹ. Vậy nên mỗi khi có khủng hoảng, họ lại bị coi là một hiểm họa.

 

Trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, hàng loạt người Mỹ gốc Nhật bị dồn vào trại tập trung (127.000 người), trong khi người Mỹ gốc Đức và Ý chỉ bị điều tra theo cá nhân [14].

 

Đến ngày nay, khi tỉ lệ người Mỹ thất nghiệp tăng lên do COVID-19, thì việc đầu tiên họ làm là cắt visa làm việc cho người nhập cư [15], nhưng người lao động trong ngành nông nghiệp thì không bị ảnh hưởng (vì ngành này cần lao động giá rẻ). Mâu thuẫn trong lòng nước Mỹ là khát vọng của một đất nước đồng nhất về văn hóa, ngôn ngữ và chủng tộc; và nhu cầu lao động của chủ nghĩa tư bản, vốn chỉ có thể được đáp ứng dựa trên nguồn cung ứng lao động từ các nước đang phát triển [16].

 

Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nước Mỹ có vẻ bớt bảo thủ hơn với người nhập cư tị nạn.

 

Trong quyển “Americans at the Gate”, Carl Tempo cho rằng các chính sách tị nạn sau Thế Chiến thứ Hai phản ánh hai điều: một là những ưu tiên về mặt đối ngoại và hai là những thay đổi trong nước về mặt văn hóa và chính trị.

 

Về mặt đối ngoại, chấp nhận người tị nạn khẳng định sự vượt trội của các giá trị và lý tưởng của nước Mỹ trên trường quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Lạnh với Liên bang Xô Viết. Về những biến đổi trong nước thì cuộc Chiến tranh Lạnh ảnh hưởng đến khái niệm thế nào là người Mỹ (American identity). Những năm 1950, khái niệm “căn tính Mỹ” mang ý nghĩa chống Cộng và đến những năm 1960, cùng với sự trỗi dậy của các phong trào tự do thì khái niệm “danh tính Mỹ” có ý nghĩa nhấn mạnh việc bảo vệ các quyền của cá nhân [17]

 

Những điều này ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách cho người tị nạn. Trong bối cảnh này, việc tiếp nhận người tị nạn từ các nước cộng sản minh chứng cho sự vượt trội của lý tưởng tự do và dân chủ của nước Mỹ [18] và sự hào phóng của nước Mỹ khi sẵn lòng giúp đỡ người tị nạn.

 

Có lẽ trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh thì tư tưởng nước Mỹ là đất nước hào phóng và chào đón người tị nạn có vẻ hợp lý khi Mỹ đóng vai là người hùng của Thế Chiến thứ Hai. Nhưng từ sau cuộc Chiến tranh Việt Nam (người Việt gọi là Kháng chiến chống Mỹ), tư tưởng “giúp đỡ” người tị nạn từ Đông Nam Á bị các học giả phê phán. Ví dụ như trong quyển Body Counts, Yến Lê Espiritu chỉ ra rằng khi nhấn mạnh vào sự “giúp đỡ” của nước Mỹ đối với người Việt tị nạn thì người ta sẽ quên đi vai trò của nước Mỹ trong việc tạo ra một làn sóng người tị nạn [19].

 

https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/lossy-page1-800px-South_China_Sea....Crewmen_of_the_amphibious_cargo_ship_USS_Durham_LKA-114_take_Vietnamese_refugees_aboard_a_small..._-_NARA_-_558518.tif_.jpg

Tàu chở hàng USS Durham của Mỹ cứu thuyền nhân Việt Nam trên biển Đông, năm 1975. Ảnh: U.S. National Archives and Records Administration.

 

Thêm nữa, các câu chuyện về sự thành công của người tị nạn trên đất Mỹ trở thành bằng chứng cho sự “giúp đỡ” của nước Mỹ đối với họ và nhấn mạnh vai trò của nước Mỹ trong việc “giải cứu” thế giới, một vai trò quan trọng cho sự thống trị của nước Mỹ sau Thế Chiến thứ Hai [20]. Bằng cách này, người tị nạn coi như được ban tặng món quà của tự do. Trong quyển “The Gift of Freedom”, Mimi Nguyễn chỉ ra rằng “món quà của tự do” là cách để nước Mỹ biện minh cho các hành động bạo lực chiến tranh với danh nghĩa là giải phóng cho người bị áp bức [21].

 

Như vậy, người tị nạn không những góp phần vào sự đa sắc tộc/đa văn hóa của nước Mỹ mà còn là minh chứng cho một nước Mỹ hào phóng, thay thế hoàn toàn hình ảnh nước Mỹ kém hào phóng đối với người nhập cư trước đây. Và đa sắc tộc không có nghĩa là có sự bình đẳng giữa các sắc tộc. Sự đa sắc tộc trong một xã hội không bình đẳng vận hành theo chủ nghĩa tư bản sẽ tạo tiền đề cho việc bóc lột những người thuộc sắc tộc bị áp bức, dẫn đến tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng.

 

Thêm nữa, chủ nghĩa đa văn hóa tự do (liberal multiculturalism) trong những năm 1980 đến những năm 1990, nhấn mạnh vào việc thừa nhận sự tồn tại và đóng góp của các nền văn hóa khác nhau trong nước Mỹ, vô hình làm lu mờ thực tại về sự bất bình đẳng giữa các chủng tộc trong xã hội Mỹ [22], làm mọi người quên đi những đặc quyền dành cho người thuộc chủng tộc được cho là “vượt trội” trong một xã hội phân tầng theo chủng tộc như nước Mỹ.

 

Từ sau những năm 2000, chủ nghĩa đa văn hóa tân tự do (neoliberal multiculturalism) trong bối cảnh toàn cầu hóa nhấn mạnh tính ưu việt của một công dân toàn cầu thể hiện qua lý tưởng công dân đa văn hóa [23]. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa tân tự do (nhấn mạnh vào vai trò của cá nhân) và chủ nghĩa đa văn hóa xóa mờ sự khác biệt về chủng tộc và sự thật về sự phân biệt chủng tộc có tính hệ thống trong xã hội Mỹ. Chủ nghĩa đa văn hóa tân tự do làm cho sự bất bình đẳng chủng tộc như là một điều hiển nhiên khi cho rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa, người da màu không phù hợp để trở thành công dân toàn cầu là do bản thân họ [24].

 

Nói tóm lại, nước Mỹ trong mắt tôi là đầy những mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực. Nước Mỹ có một lý tưởng đẹp nhưng hiện thực lại khá phũ phàng.

 

Nói đến đây, chắc có người sẽ nói rằng chẳng phải nước Mỹ vẫn tốt đẹp hơn nhiều đất nước khác hay sao. Tôi thừa nhận nước Mỹ có những mặt tốt nhưng việc chỉ ra sự thật xấu xí của nước Mỹ không phải là để so nước Mỹ với các quốc gia khác. Thừa nhận thực tại của nước Mỹ để thấy rằng nước Mỹ vẫn còn phải đấu tranh để đạt tới được lý tưởng mà những người lập quốc đề ra.

 

Tôi nghĩ rằng lý tưởng ban đầu của nước Mỹ là một điều đáng theo đuổi. Có lẽ vì cái lý tưởng tốt đẹp đó mà giấc mơ Mỹ, ở một mức độ nào đó, vẫn còn tồn tại vì người ta tin cái lý tưởng tự do, dân chủ và bình đẳng của đất nước có thể thành hiện thực trong tương lai (mặc dù hiện tại những điều đó có thể chưa đạt được).

 

Giấc mơ Mỹ, hiểu theo bài diễn văn của Martin Luther King Jr., là giấc mơ về một dân tộc vùng lên và sống đúng theo lý tưởng của nước Mỹ: Tất cả mọi người đều được sinh ra với quyền bình đẳng [25]. Do đó, khi tôi nghĩ về nước Mỹ, tôi không phải chỉ thấy sự mâu thuẫn mà còn cả hy vọng.

 

Hi vọng này chỉ thành hiện thực khi người da màu đoàn kết và đấu tranh.

 


 

Chú thích

 

[1] Natalia Molina, “Understanding Race as a Relational Concept,” Modern American History 1, no. 1 (2018): 104.

 

[2] Shelley Streeby, American Sensations: Class, Empire, and the Production of Popular Culture, vol. 9 (Univ of California Press, 2002), 252.

 

[3] Natalia Monila, How Race is Made in America (University of California Press, 2014), 6.

 

[4] Sucheng Chan, Asian Americans: An Interpretive History (Twayne Publishers, 1991), 3.

 

[5] Ibid., 3.

 

[6] Mae M Ngai, Impossible Subjects: Illegal Aliens and the Making of Modern American (Princeton University Press, 2014), 169.

 

[7] Ibid., 39.

 

[8] Ibid., 101.

 

[9] Ibid., 117.

 

[10] Ibid., 21.

 

[11] Behdad, A Forgetful Nation: On Immigration and Cultural Identity in the United States, 113.

 

[12] Aguilera, Jasmine. “Citizens Facing Deportation Isn’t New. Here’s What Happened When the U.S. Removed Mexican-Americans in the 1930s.”, TIME, August 2, 2019.

 

[13] Carl J Bon Tempo, Americans at the Gate: The United States and Refugees During the Cold War (Princeton University Press, 2008), 17.

 

[14] Ngai, Impossible Subjects: Illegal Aliens and the Making of Modern American, 175.

 

[15] “Trump Freezes Green Cards, Many Work Visas Until End Of Year.” NPR, June 20, 2020. 

 

[16] Lisa Lowe, Immigrant Acts: On Asian American Cultural Politics (Duke University Press, 1996), 13.

 

[17] Tempo, Americans at the Gate: The United States and Refugees During the Cold War, 5.

 

[18] Ibid., 30.

 

[19] Le Yen Espiritu, Body Counts: The Vietnam War and Militarized Refugees (Univ of California Press, 2014), 17.

 

[20] Ibid., 100.

 

[21] Mimi Thi Nguyen, The Gift of Freedom: War, Debt, and Other Refugee Passages (Duke University Press, 2012), 23.

 

[22] Jodi Melamed, Represent and Destroy: Rationalizing Violence in the New Racial Capitalism (U of Minnesota Press, 2011), 40.

 

[23] Ibid., 137.

 

[24]  Ibid., 49.

 

[25] Tạm dịch theo câu của MLK: “I have a dream that one day this nation will rise up and live out the true meaning of its creed — we hold these truths to be self-evident: that all men are created equal.”

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats