NỘI
DUNG :
Kỳ 1 : Nước Mỹ thời lập quốc của những người da trắng tự do
Kỳ 2 : Nền
dân chủ của người da trắng
Kỳ 3 và hết: Nước
Mỹ chào đón người nhập cư? Không hẳn.
.
===============================================
.
.
Nước Mỹ thời lập quốc của những người da trắng tự do
NDC Giang - Luật Khoa
17/10/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/10/nuoc-my-thoi-lap-quoc-cua-nhung-nguoi-da-trang-tu-do/
Khi nói về nước Mỹ, tôi hay
nghe nhiều người nói về giấc mơ Mỹ, về tự do, dân chủ, bình đẳng, về sự đa sắc
tộc/đa văn hóa, và cơ hội cho những ai biết cố gắng vươn lên. Tất cả những điều
này tạo nên một hình ảnh nước Mỹ đặc biệt ngoại lệ (exceptional).
Đối với tôi, nước Mỹ
không phải đặc biệt ngoại lệ. Cũng như nhiều nước phát triển khác, nước Mỹ chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, bất công và đầy khoảng cách khác biệt giữa các tầng lớp
xã hội, giữa những người có quyền lực và những người không có quyền lực.
Trong loạt ba bài viết
này, tôi muốn chỉ ra đằng sau những điều được cho là “đặc biệt” là một nước Mỹ
được định hình trên quyền lợi chính trị và kinh tế của người da trắng. Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là nước Mỹ không có tiềm năng. Tôi tin rằng
tiềm năng của nước Mỹ nằm ở việc đấu tranh để biến lý tưởng thành hiện thực.
Ảnh: Getty Images.
Kỳ 1:
Nước
Mỹ thời lập quốc của những người da trắng tự do
Nước Mỹ hay được ví là đất
nước của những người nhập cư đi tìm tự do.
Câu chuyện quen thuộc kể
về nước Mỹ là hình ảnh những người Pilgrims hay Puritans đi tìm tự do về tôn
giáo. Thomas Paine, trong quyển “Common Sense” viết năm 1776 đã nói rằng “Thế
giới mới này [nước Mỹ] là vùng đất tị nạn của những người yêu chuộng quyền tự do
dân sự và tự do tôn giáo đã bị bắt bớ ở khắp châu Âu.”[1] Và
có lẽ minh chứng hùng hồn nhất cho sự tự do, dân chủ và bình đẳng của nước Mỹ
là Đạo luật Nhân quyền (Bill of Rights) ban hành năm 1791. Gọi là đạo luật
nhưng thực ra nó là tập hợp của 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Mỹ, quy định
về nhân quyền.
Đạo luật Nhân quyền đúng
là một lý tưởng về quyền công dân của nước Mỹ. Câu hỏi là ai được xem là công
dân.
Theo luật nhập tịch đầu
tiên của Mỹ năm 1790 (Naturalization Act 1790) thì chỉ có những người da trắng
tự do, ở Mỹ hai năm mới được nhập tịch Mỹ [2]. Như vậy, theo luật này, những
người da trắng đến Mỹ theo dạng lao động có thời hạn (indentured servants), những
người nô lệ da đen, ngay cả những người da đen tự do, và dĩ nhiên là cả người đến
từ châu Á đều không thể trở thành người Mỹ. Như vậy, khi Đạo luật Nhân quyền được
ban hành thì nó không dành cho số đông đang sống tại Mỹ.
Nói vậy là vì vào thời điểm
đó không phải ai cũng giàu có để có thể tự bỏ tiền đến Mỹ với tư cách là người
tự do. Chưa kể trong thời kỳ của 13 thuộc địa ban đầu, lực lượng lao động bị
thiếu trầm trọng nên việc nhập khẩu lao động là rất cần thiết. Ví dụ như ở
Virginia có một hệ thống cấp đất theo đầu người (Headright system). Ai trả chi
phí đem người lao động nhập cư đến Virginia thì sẽ được cấp cho 50 acre đất
trên một đầu người.
Cảnh nô lệ trồng
thuốc lá tại Jamestown, Virginia trong một cuốn sách giáo khoa năm 1878. Ảnh:
Wikimedia.
Như vậy, ngoài một bộ phận
dân di cư tìm tự do tôn giáo, thì có một bộ phận không nhỏ (từ 1/2 đến 2/3 tổng
số người di dân da trắng) [3] sang Mỹ bằng con đường lao động theo thời hạn
(indentured servitude). Những người này dù không bị xem là nô lệ
nhưng họ cũng không phải là người tự do cho đến khi hoàn tất hợp đồng (thường
là từ 4-7 năm). Trong khoảng thời gian đó, họ mất đi quyền tự do cơ bản và điều
kiện làm việc cũng rất khắc khổ [4]. Thêm nữa thời hạn lao động của họ có
thể bị kéo dài nếu họ vi phạm luật [5]. Do đó, đối với những người nghèo nhập
cư từ châu Âu, con đường đến Mỹ trước hết không phải là con đường đến tự do
[6].
Có thể đến đây bạn sẽ
nghĩ rằng sau 4-7 năm thì những người lao động này sẽ thành người da trắng tự
do và công dân Mỹ. Thế nhưng, ước tính chỉ có 40% những người
lao động này sống sót để có thể hưởng được thành quả “tự do” này. Chưa kể sau
khi được tự do thì thủ tục để lãnh đất cũng không đơn giản và thường kéo dài,
làm cho số người hoàn thành được thời hạn lao động, vốn đã rất ít ỏi, từ bỏ quyền
lấy đất [7].
Có thể nói ngay từ thời
điểm ban đầu, việc khuyến khích nhập cư là vì ước muốn phát triển kinh tế và mở
rộng lãnh thổ của những người cầm quyền lúc đó. Tuy nhiên, ước muốn này lại hay
được ngụy biện dưới ngôn từ của tự do. Bản thân Thomas Jefferson cũng cho rằng
những người nhập cư từ châu Âu được hưởng thụ lợi ích của tự do và phủ nhận vai
trò của họ trong việc “mở mang lãnh thổ” (và dĩ nhiên góp phần trong việc lấy dần
đất của người Mỹ Bản Địa) [8].
Jefferson mơ về một nền
dân chủ nông nghiệp (agrarian democracy) dựa trên chế độ lao động theo thời hạn
này (indentured servitude), khi người lao động có thể tự tồn tại dựa vào đất được
phân sau khi họ được tự do. Tuy nhiên, điều này đã không thể xảy ra vì chế độ
lao động có thời hạn cũng có một bất cập lớn: đó là khi người lao động kết thúc
thời hạn lao động và được phân đất (tức là bắt đầu có quyền lợi chính trị) thì
xung đột giữa những người này và những người chủ đất mà trước đó là chủ của họ
bắt đầu (điển hình là cuộc nổi loạn Bacon’s Rebellion).
Do đó, lao động nô lệ được
ưa chuộng hơn vì hai lý do: thứ nhất, tầng lớp thống trị khỏi phải lo lắng về sự
nổi dậy của một tầng lớp mới được tự do và thứ hai, tạo nên một xã hội mà màu
da trắng đồng nghĩa tự do [9].
Đến đây đã có thể thấy,
trước khi chế độ nô lệ trở nên phổ biến ở Mỹ, người lao động nhập cư da trắng
cũng không dễ gì trở thành công dân Mỹ để hưởng thụ được những gì mà bản Đạo luật
Nhân quyền nêu ra. Có thể thấy cái cốt lõi của tự do của nước Mỹ không dành cho
người da trắng ở giai cấp thấp. Đó là chưa nói đến việc tư tưởng “tự do” của nước
Mỹ được đặt trên nền móng của sự mất tự do của người nô lệ da đen.
Bài diễn văn nổi tiếng của
một người đã từng làm nô lệ, Frederick Douglass, nói lên rất rõ sự mâu thuẫn
này. Trong bài diễn văn “What to the Slave is the Fourth of July?” (Ngày Quốc
khánh Mỹ có ý nghĩa gì đối với người nô lệ?), Douglass lên tiếng nói về tính “đạo
đức giả” của nước Mỹ (“hypocrisy of the nation”).
Ông nói, người Mỹ luôn
nói về độc lập và tự do, trong khi sự tự do chính trị và sự công bằng được nói
đến trong Tuyên ngôn Độc lập không hề dành cho người da đen. [10] Có thể thấy,
cái cốt lõi của nước Mỹ khi lập quốc là tự do và bình đẳng cho một số người thuộc
tầng lớp trên của xã hội mà thôi.
Kỳ tới: Nền dân chủ của người da trắng
Chú thích:
[1] Câu nguyên
văn: “This new world has been the asylum for the persecuted lovers of
civil and religious liberty from every part of Europe.” Xem
quyển Common Sense tại đây.
[2] Xem nguyên văn luật
trong Thư Viện Quốc Hội tại đây.
[3] David W Galenson,
“The Rise and Fall of Indentured Servitude in the Americas: An Economic
Analysis,” Journal of Economic History (1984): 1.
[4] Ibid., 4.
[5] Xem thêm Book IV
trong quyển American Slavery, American Freedom: The Ordeal of Colonial
Virginiacủa Edmund S. Morgan.
[6] Ali Behdad, A
Forgetful Nation: On Immigration and Cultural Identity in the United States (Duke
University Press, 2005), 26-27.
[7] Elodie
Peyrol-Kleiber, “Starting Afresh: Freedom Dues Vs Reality in 17th Century
Chesapeake,” Mémoire (s), identité (s), marginalité (s) dans le monde
occidental contemporain. Cahiers du MIMMOC, no. 19 (2018). https://journals.openedition.org/mimmoc/2777, đoạn
18.
[8] Ali Behdad, A
Forgetful Nation: On Immigration and Cultural Identity in the United States (Duke
University Press, 2005), 26-27.
[9] Xem thêm bài viết
về lao động nhập cư cúa The
Atlantic: “American Cannot Bear to Bring Back Indentured
Servitude”, March 28, 2018.
[10] Bản tiếng Anh Douglass viết là: “Are the great
principles of political freedom and of natural justice, embodied in that
Declaration of Independence, extended to us [enslaved people]?”.
=====================================================
.
.
Kỳ 2 :
Nền
dân chủ của người da trắng
NDC Giang - Luật Khoa
18/10/2020
Vào thời kỳ lập quốc của Hoa Kỳ, nếu quyền công dân
chỉ dành cho người da trắng tự do thì dân chủ cũng chỉ dành cho người da trắng
tự do.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/us-congress.jpg
Quang cảnh một cuộc
họp của Hạ viện Mỹ, chưa rõ thời điểm. Nguồn: house.gov.
Khi bàn đến tính dân chủ
của xã hội Mỹ, có lẽ phải nhắc đến quyển “Democracy in America” (Nền dân
trị Mỹ) của Alexis de Tocqueville, khen ngợi chế độ dân chủ – cộng hòa của nước
Mỹ. Ông cho rằng nước Mỹ được như vậy là do ba yếu tố: điều kiện tự nhiên và lịch
sử đặc biệt của nước Mỹ, luật pháp, và tính cách và tập quán của con người. [1]
Điều đáng nói là khi khen
ngợi nước Mỹ, Tocqueville suy nghĩ theo chiều hướng phân biệt chủng tộc khi ông
cho rằng sự hình thành của nền dân chủ là do văn hóa và truyền thống của một cộng
đồng châu Âu có văn hóa vượt trội [2]. Tocqueville cũng có phê phán chế độ nô lệ
nhưng lại tập trung vào khía cạnh kinh tế mà bỏ qua sự hình thành của mối quan
hệ giữa chủng tộc giữa người da trắng và người da đen, cũng như hệ thống luật
pháp áp bức đã tạo nên sự bất bình đẳng trong xã hội [3].
Thêm nữa, theo
Tocqueville, Người Mỹ Bản Địa (Native Americans) suy tàn là tất yếu vì họ không
có kiến thức về nông nghiệp và không biết canh tác đất [4]. Tư tưởng này có điểm tương đồng với tư
tưởng của John Locke về vấn đề đất đai và tài sản. Tư tưởng của John Locke là một
trong hai tư tưởng quan trọng có ảnh hưởng đến sự hình thành của nước Mỹ. (Tư
tưởng còn lại là về việc hạn chế quyền lực của người cầm quyền, biểu hiện qua Đại
hiến chương Magna Carta).
Locke tin rằng đất đai
nên được “inclosed” (khoanh vùng lại cho sở hữu tư nhân) [5] và đất đai sẽ không có giá trị nếu
không được canh tác (cultivated) [6]. Sức lao động (labor) thể hiện qua hành động
canh tác là thứ tạo ra giá trị cho mảnh đất. Do đó, có thể hiểu tại sao những
người di dân đầu tiên đến nước Mỹ xem việc săn bắt của người Mỹ Bản Địa là phản
lao động, như lời của nhà sử học David Roediger thì là “opposite of
labor.” [7]
Như vậy việc sở hữu đất
và canh tác đất để tạo lợi nhuận của người da trắng được xem là vượt trội
(superior) so với việc không chiếm đất làm sở hữu cá nhân (private property) và
việc sống trong thiên nhiên của người Mỹ Bản Địa. Bởi vì người Mỹ Bản Địa không
chiếm đất làm sở hữu tư nhân và canh tác nên đất đai ở Mỹ được những người nhập
cư da trắng xem là đất trống (vacant), cộng thêm việc xem lối sống của người Mỹ
Bản Địa là mọi rợ (savage) dẫn đến việc chiếm đất mà người Mỹ Bản Địa đang sinh
sống lại được xem là “tốt cho nhân loại” (“benefit for humanity”) [8].
Như vậy, sự dân chủ dựa
trên sở hữu tư nhân (private property) và bảo vệ tài sản cá nhân (Tu chính án
thứ Năm) là một quá trình chiếm đất một cách thô bạo mà Tocqueville nói riêng
và nước Mỹ nói chung cố tình quên đi.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/10/tocqueville.png
‘Nền dân trị Mỹ’ mà
Tocqueville ca ngợi vào thế kỷ XIX không có chỗ cho người da đen. Ảnh: LK.
Và dân chủ ở Mỹ trong thời
lập quốc cũng không dành cho phụ nữ da trắng. Mặc dù luật nhập tịch năm 1790
không cấm phụ nữ da trắng trở thành công dân nhưng phụ nữ lúc đó không có quyền
bầu cử (cho đến tận năm 1920). Chưa kể luật này thừa nhận con của công dân Mỹ
sinh ở nước ngoài là công dân Mỹ, trong khi lại không thừa nhận quyền công dân
của người sinh ra ở nước ngoài nếu người cha không phải là người thường trú
(resident) ở Mỹ. Điều này có nghĩa là quyền công dân chỉ được thừa hưởng từ người
cha chứ không phải người mẹ. Như vậy mặc dù phụ nữ Mỹ có thể được xem là công
dân về mặt luật pháp nhưng trên thực tế thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.
Khi nước Mỹ chính thức được
thành lập vào năm 1776, Abigail Adams đã viết thư cho chồng mình là John Adams
(lúc đó đang là nghị sĩ Quốc hội, và sau này trở thành tổng thống thứ hai của
nước Mỹ) dặn dò ông hãy luôn nhớ đến những người phụ nữ. Bà muốn ông nhớ đến phụ
nữ khi tham gia vào việc ban hành luật pháp cho đất nước mới, khuyên ông không
nên giao cho “Các Đức Ông Chồng” (nguyên bản là bà viết hoa từ “Husbands”) quyền
lực tuyệt đối vì đàn ông sẽ trở thành bạo chúa nếu họ có thể, và cảnh báo rằng
phụ nữ có thể nổi loạn nếu như họ không có tiếng nói [9]. Lúc đó John Adams bác bỏ những lời đề
nghị trong lá thư mà ông
cho là xấc xược (“saucy”) của bà. Như vậy, khởi thủy của nền dân chủ ở Mỹ chỉ
dành cho người đàn ông da trắng tự do.
Trong một đất nước trong
thời kỳ lập quốc mà có:
·
1/5 dân số không
có quyền công dân (người nô lệ);
·
1/2 đến 2/3 trên tổng số
người da trắng nhập cư là lao động theo thời hạn (indentured servants) (như đã
nói ở trên) cũng không có quyền công dân (sau này khi tỷ lệ này giảm xuống, và
lực lượng lao động được thay thế bằng người nhập cư từ châu Á, chủ yếu là người
Trung Quốc, thì người nhập cư từ Trung Quốc cũng không được trở thành công dân
mãi đến sau 1943);
·
Trong số còn lại có thể
có quyền công dân thì phụ nữ lại không được đi bầu;
thì nước Mỹ lập ra dân chủ
là cho ai thì đã rõ.
Thế những thành tựu về tự do, dân chủ và bình đẳng (ở một mức độ nào
đó) của nước Mỹ cho đến ngày hôm nay là do đâu mà có? Là do sự đấu tranh
không ngừng của những người bị áp bức.
Nhờ đấu tranh mà chế độ
nô lệ mới bị bãi bỏ, người Da Đen được xem là công dân Mỹ và được đi bầu. Nhờ đấu
tranh mà phụ nữ mới có quyền bầu cử. Nhờ Phong trào Dân quyền mà người Da Đen mới
có quyền bình đẳng. Đó là lý do tại sao Nikole Hannah – Jones, nhà báo được giải
Pulitzer năm 2020, đã viết
rằng “Nước Mỹ là một quốc gia được xây dựng trên nền tảng của
lý tưởng và của cả sự dối trá.” (“The United States is a nation founded on both
an ideal and a lie.”) Hannah-Jones lập luận rằng chính người Da Đen đã đấu
tranh để biến những lý tưởng của nước Mỹ thành hiện thực.
Rõ ràng là thế.
Nước Mỹ đã
và đang là đất nước của người da trắng. Khi Tổng thống Lincoln bị ám sát, Phó Tổng thống
Andrew Jackson đã tuyên
bố rằng “Đây là đất nước của người da trắng và ngày nào tôi làm
tổng thống thì chính quyền này sẽ là chính quyền của người da trắng.” (“This is
a country for white men, and by God, as long as I am President, it shall be a
government for white men”)
Đến ngày giờ này, chính
vì nước Mỹ vẫn là đất nước của người da trắng, nên khi cơn đại dịch COVID-19 xảy
ra, ta thấy rõ sự bất bình đẳng trong một xã hội phân tầng theo màu da: những
người được gọi là “essential workers” vẫn phải đi làm trong các nhà máy thịt,
trong các siêu thị, những người giao hàng đa số vẫn là người da màu. Những người
làm ở bệnh viện (lao công, quét dọn, y tá) cũng chủ yếu là người da màu và phụ
nữ.
Kỳ 3 và hết: Chào đón người nhập cư? Không hẳn.
Chú thích:
[1] A Forgetful Nation: On Immigration and
Cultural Identity in the United States, 53.
[2] Ibid., 58.
[3] Ibid., 66.
[4] Ibid., 63.
[5] Trích câu nói của Locke về vấn đề này:
““What would a man value 10,000 acres of excellent land, ready cultivated, and
well-stocked with cattle, in the middle of the inland parts of America, where
he had no hopes to draw money to him by the sale of the product? It would not
be worth the inclosing, and we should see him give up again to the wild
common”.
[6] Trích câu nói của Locke: “Let anyone
consider, what the difference is between an acre of land planted with tobacco
or sugar, sown with wheat or barley; and an acre of the same land lying in
common, without any husbandry upon it, and he will find that the improvement of
labour makes the far greater part of the value.” Xem tại đây.
[7] David R Roediger, How Race
Survived Us History: From Settlement and Slavery to the Obama Phenomenon,
Verso, 2019, 24.
[8] Ibid., 25.
[9] Nguyên văn là: “I long to hear that you
have declared an independency—and by the way in the new Code of Laws which I
suppose it will be necessary for you to make I desire you would Remember the
Ladies, and be more generous and favorable to them than your ancestors. Do not
put such unlimited power into the hands of the Husbands. Remember all Men would
be tyrants if they could. If perticuliar care and attention is not paid to the
Ladies we are determined to foment a Rebellion, and will not hold ourselves
bound by any Laws in which we have no voice, or Representation.” Có thể đọc bức
thư của bà ở đây.
---------------------------------------
.
.
19/10/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/10/nuoc-my-chao-don-nguoi-nhap-cu-khong-han/
.
Nước Mỹ vẫn luôn được
nghĩ đến như một đất nước chào đón người nhập cư, mở cửa cho những người bị đàn
áp. Nhưng trong suy nghĩ đại chúng về nước Mỹ, ít thấy nhắc đến sự đóng góp của
người Da Đen hay của người nhập cư da màu cho sự phát triển của nước Mỹ, trong
khi sự thịnh vượng của nước Mỹ một phần lớn là do bóc lột sức lao động của họ.
Đến tận bây giờ, những
thành tựu của lý tưởng tự do, dân chủ và bình đẳng vẫn được xem là xuất phát từ
sự “đặc biệt” của nước Mỹ hơn là từ sự đấu tranh của người Da Đen. Và đến bây
giờ, người nhập cư vẫn bị xem là mối hiểm họa cho một bộ phận không ít người Mỹ
(đối với người Mỹ sinh ra ở đây và cả người Mỹ có gốc nhập cư nhưng đã nhập tịch).
Trong lịch sử dựng nước, nước Mỹ là đất nước của người da trắng. Đất nước này
hoàn toàn không chào đón người nhập cư như ta tưởng.
Như vậy sự đa sắc tộc của
nước Mỹ từ đâu mà có? Đó là từ việc nước Mỹ bành trướng lãnh thổ, từ nhu cầu về
lao động để phát triển kinh tế, và từ các cuộc chiến tranh mà nước Mỹ tham gia
lẫn khởi xướng.
Cuộc chiến giữa Mỹ và
Mexico (1846-1848) là một ví dụ. Cuộc chiến này dẫn đến việc sáp nhập
(annexation) phần lớn lãnh thổ (và dĩ nhiên là người dân) phía Bắc của Mexico
vào Mỹ. Sau cuộc chiến, Hiệp định Guadalupe Hidalgo cho phép người Mexico trong
lãnh thổ sáp nhập trở thành công dân Mỹ. Nếu chiếu theo luật Nhập Tịch
(Naturalization Act) 1790, quy định chỉ có người da trắng tự do mới được
trở thành công dân, thì hiệp định Guadalupe Hidalgo xem người Mexico là
người da trắng [1].
Nhưng như vậy không có
nghĩa là nước Mỹ chào đón người Mexico. Sự phân loại về chủng tộc này liên quan
mật thiết đến giai cấp và quyền sở hữu đất. Khi tỷ lệ những người Mexico
lao động tay chân hoặc không sở hữu đất tăng lên thì người Mexico dần được xem
là da màu [2].
Thêm nữa, mặc dù luật pháp xem người Mexico là “da trắng”, nhưng về mặt
xã hội và văn hóa, họ vẫn bị xem là da màu (colored), cho đến
năm 1930 thì được xem là một chủng tộc riêng [3].
Niềm tin vào một nước Mỹ
da trắng đồng nhất vẫn còn đó. Shelley Streeby, trong quyển “American
Sensations”, đã chỉ ra rằng trong văn hóa đại chúng (thể hiện tư duy đại
chúng), người ta đã đặt câu hỏi về khả năng đồng hóa dân tộc khác (cả người
Ailen và người Mexico) vào nước Mỹ. Streeby còn chỉ ra rằng việc sáp nhập lãnh
thổ, mặc dù đem lại lợi ích kinh tế, luôn tạo ra sự lo ngại và bất an về viễn cảnh
phải hòa vào với dân tộc khác.
Nói tóm lại, cái tinh thần
muốn chiếm đất nhưng lại không muốn sáp nhập dân tộc mới đã có ở Mỹ từ rất sớm
như vậy. Sau này, ta lại thấy tư tưởng này lặp lại, sau khi nước Mỹ thắng trong
cuộc chiến với Tây Ban Nha năm 1899 và giành được quyền kiểm soát Cuba, Puerto
Rico, Guam và Philippines (giành quyền kiểm soát nhưng không sáp nhập).
Nhu cầu về lao động góp một
phần không nhỏ vào sự đa sắc tộc ở Mỹ. Trong thời điểm khởi đầu, người nhập cư
từ Trung Quốc đến Mỹ khi nhu cầu lao động tăng cao khi vàng được tìm thấy ở
California, và khi miền Viễn Tây nước Mỹ bắt đầu phát triển [4].
Trong Coolies and
Cane, Moon-Ho Jung lập luận rằng nếu trước cuộc Nội chiến (1860 – 1865) ,
các chủ đồn điền ở miền Nam ra sức phản đối đường dây mang lao động culi từ
Trung Quốc đến Mỹ, thì sau cuộc nội chiến, lao động culi được xem là giải pháp
cho miền Nam nước Mỹ, còn lao động nhập cư từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines
được chiêu mộ bởi những người chủ đồn điền ở Hawaii [5].
Công nhân đào vàng
người Trung Quốc ở California năm 1852. Ảnh: The Granger Collection.
Trong số những công
nhân đã xây nên tuyến đường sắt xuyên lục địa của Mỹ vào cuối thập niên 1860,
90% là người Trung Quốc. Họ thường bị gọi là culi (coolie) Ảnh: Joseph
Becker/Library of Congress.
Sự mâu thuẫn của nước Mỹ
là họ luôn cần lao động nhập cư nhưng lại bất an khi thấy nhiều người nhập cư ở
Mỹ. Chỉ cần nhìn sơ qua lịch sử luật di trú của Mỹ là có thể thấy điều này.
Luật di trú năm 1882 cấm
người Trung Quốc nhập cư vào Mỹ (luật này mãi đến năm 1943 mới được bãi bỏ [6].
Một sắc lệnh hành pháp ban hành năm 1907 cấm người Nhật nhập cư vào Mỹ từ
Hawaii. Chính quyền Mỹ lúc đó không thể ban hành luật cấm người Nhật như cấm
người Trung Quốc, do Mỹ muốn giữ quan hệ thân thiện với Nhật (lúc đó đang là một
nước hùng mạnh). Để hạn chế người Nhật nhập cư, Mỹ đã ký kết “Thoả thuận của
các Quý ông” (Gentlemen’s Agreement) với Nhật, theo đó, nước Nhật đồng ý hạn chế
người di cư bằng cách không cấp hộ chiếu cho người lao động di cư [7].
Đối với người
Philippines, vì nước này thuộc bảo hộ của Mỹ nên người Philippines được quyền
sang Mỹ; và trong khi lao động người Trung Quốc và người Nhật không thể nhập cư,
làm giảm lực lượng lao động, thì lao động Philippines trở thành một nguồn lao động
quan trọng [8].
Cách để ngăn chặn nhập cư từ Philippines là cho Philippines độc lập. Tác giả
Mae Ngai trong cuốn “Impossible Subjects: Illegal Aliens and the Making of
Modern American” lập luận rằng việc Mỹ nghĩ đến việc độc lập của Philippines là
để giải thoát Mỹ khỏi vấn đề dân nhập cư đến từ nước này [9] (kết
quả là đạo luật Hare-Hawes-Cutting Act năm 1932).
Thêm một ví dụ nữa là luật
di trú năm 1924 (Johnson-Reed Act) sửa lại Emergency Quota Law 1921.
Luật năm 1921 thiết lập hạn
ngạch cho người nhập cư từ một quốc gia là 3% số dân của nhóm người đó đang ở Mỹ,
dựa theo thống kê dân số gần nhất là năm 1910. Tuy nhiên, vấn đề là nếu theo thống
kê 1910 thì người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu chiếm 45% hạn ngạch, và mặc dù luật
đã cắt bớt 20% hạn ngạch cho dân nhập cư từ vùng này thì con số này vẫn cao một
cách không chấp nhận được. Thế nên những người ủng hộ dân bản xứ (nativists) mới
có lập luận cho rằng phải dựa theo thống kê dân số năm 1870 để thiết lập hạn ngạch
vì thống kê năm 1870 thì số lượng người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu rất ít,
như vậy sẽ đảm bảo được dòng máu bản xứ (native stock) của người Mỹ.
Luật di cư năm 1924 được
thông qua, thiết lập hạn ngạch dựa trên thống kê dân số 1870 (do một lập luận
khác của John Trevor, không mang thái độ kỳ thị chủng tộc rõ ràng như lập luận
ban đầu và vẫn giữ được cái tinh thần giảm người nhập cư từ Đông Âu và Nam Âu
đó) [10].
Nói tóm lại, nước Mỹ không chào đón người nhập cư. Lúc cần thì đem người
nhập cư đến và khi khủng hoảng hay khó khăn thì lại đuổi họ đi [11].
Thật vậy, khi cuộc khủng
hoảng xảy ra năm 1930 (Great Depression) thì khoảng hai triệu người Mexico, 60%
trong số đó là người Mỹ gốc Mexico, bị đuổi về Mexico [12] vì người Mỹ tin rằng những người nhập
cư lấy đi công việc của họ [13]– một lập luận mà đến giờ ta vẫn còn nghe
thấy.
Người nhập cư da màu dù ở
Mỹ bao đời vẫn không được xem là người Mỹ. Vậy nên mỗi khi có khủng hoảng, họ lại
bị coi là một hiểm họa.
Người nhập cư da
màu dù ở Mỹ bao đời vẫn không được xem là người Mỹ. Vậy nên mỗi khi có khủng hoảng,
họ lại bị coi là một hiểm họa.
Trong Chiến tranh Thế giới
thứ Hai, hàng loạt người Mỹ gốc Nhật bị dồn vào trại tập trung (127.000 người),
trong khi người Mỹ gốc Đức và Ý chỉ bị điều tra theo cá nhân [14].
Đến ngày nay, khi tỉ lệ
người Mỹ thất nghiệp tăng lên do COVID-19, thì việc đầu tiên họ làm là cắt visa
làm việc cho người nhập cư [15], nhưng người lao động trong ngành nông
nghiệp thì không bị ảnh hưởng (vì ngành này cần lao động giá rẻ). Mâu thuẫn
trong lòng nước Mỹ là khát vọng của một đất nước đồng nhất về văn hóa, ngôn ngữ
và chủng tộc; và nhu cầu lao động của chủ nghĩa tư bản, vốn chỉ có thể được đáp
ứng dựa trên nguồn cung ứng lao động từ các nước đang phát triển [16].
Sau Chiến tranh Thế giới
thứ Hai, nước Mỹ có vẻ bớt bảo thủ hơn với người nhập cư tị nạn.
Trong quyển “Americans
at the Gate”, Carl Tempo cho rằng các chính sách tị nạn sau Thế Chiến
thứ Hai phản ánh hai điều: một là những ưu tiên về mặt đối ngoại và hai là những
thay đổi trong nước về mặt văn hóa và chính trị.
Về mặt đối ngoại, chấp nhận
người tị nạn khẳng định sự vượt trội của các giá trị và lý tưởng của nước Mỹ
trên trường quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Lạnh với Liên
bang Xô Viết. Về những biến đổi trong nước thì cuộc Chiến tranh Lạnh ảnh hưởng
đến khái niệm thế nào là người Mỹ (American identity). Những năm 1950, khái niệm
“căn tính Mỹ” mang ý nghĩa chống Cộng và đến những năm 1960, cùng với sự trỗi dậy
của các phong trào tự do thì khái niệm “danh tính Mỹ” có ý nghĩa nhấn mạnh việc
bảo vệ các quyền của cá nhân [17].
Những điều này ảnh hưởng
đến việc hoạch định chính sách cho người tị nạn. Trong bối cảnh này, việc tiếp
nhận người tị nạn từ các nước cộng sản minh chứng cho sự vượt trội của lý tưởng
tự do và dân chủ của nước Mỹ [18] và sự hào phóng của nước Mỹ khi sẵn
lòng giúp đỡ người tị nạn.
Có lẽ trong giai đoạn đầu
của cuộc Chiến tranh Lạnh thì tư tưởng nước Mỹ là đất nước hào phóng và chào
đón người tị nạn có vẻ hợp lý khi Mỹ đóng vai là người hùng của Thế Chiến thứ
Hai. Nhưng từ sau cuộc Chiến tranh Việt Nam (người Việt gọi là Kháng chiến chống
Mỹ), tư tưởng “giúp đỡ” người tị nạn từ Đông Nam Á bị các học giả phê phán. Ví
dụ như trong quyển Body Counts, Yến Lê Espiritu chỉ ra rằng
khi nhấn mạnh vào sự “giúp đỡ” của nước Mỹ đối với người Việt tị nạn thì người
ta sẽ quên đi vai trò của nước Mỹ trong việc tạo ra một làn sóng người tị nạn [19].
Tàu chở hàng USS
Durham của Mỹ cứu thuyền nhân Việt Nam trên biển Đông, năm 1975. Ảnh: U.S.
National Archives and Records Administration.
Thêm nữa, các câu chuyện
về sự thành công của người tị nạn trên đất Mỹ trở thành bằng chứng cho sự “giúp
đỡ” của nước Mỹ đối với họ và nhấn mạnh vai trò của nước Mỹ trong việc “giải cứu”
thế giới, một vai trò quan trọng cho sự thống trị của nước Mỹ sau Thế Chiến thứ
Hai [20]. Bằng cách này, người tị nạn coi như được
ban tặng món quà của tự do. Trong quyển “The Gift of Freedom”, Mimi Nguyễn
chỉ ra rằng “món quà của tự do” là cách để nước Mỹ biện minh cho các hành động
bạo lực chiến tranh với danh nghĩa là giải phóng cho người bị áp bức [21].
Như vậy, người tị nạn
không những góp phần vào sự đa sắc tộc/đa văn hóa của nước Mỹ mà còn là minh chứng
cho một nước Mỹ hào phóng, thay thế hoàn toàn hình ảnh nước Mỹ kém hào phóng đối
với người nhập cư trước đây. Và đa sắc tộc không có nghĩa là có sự bình đẳng giữa
các sắc tộc. Sự đa sắc tộc trong một xã hội không bình đẳng vận hành theo chủ
nghĩa tư bản sẽ tạo tiền đề cho việc bóc lột những người thuộc sắc tộc bị áp bức,
dẫn đến tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng.
Thêm nữa, chủ nghĩa đa
văn hóa tự do (liberal multiculturalism) trong những năm 1980 đến những năm
1990, nhấn mạnh vào việc thừa nhận sự tồn tại và đóng góp của các nền văn hóa
khác nhau trong nước Mỹ, vô hình làm lu mờ thực tại về sự bất bình đẳng giữa
các chủng tộc trong xã hội Mỹ [22], làm mọi người quên đi những đặc quyền
dành cho người thuộc chủng tộc được cho là “vượt trội” trong một xã hội phân tầng
theo chủng tộc như nước Mỹ.
Từ sau những năm 2000, chủ
nghĩa đa văn hóa tân tự do (neoliberal multiculturalism) trong bối cảnh toàn cầu
hóa nhấn mạnh tính ưu việt của một công dân toàn cầu thể hiện qua lý tưởng công
dân đa văn hóa [23]. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa tân tự do (nhấn
mạnh vào vai trò của cá nhân) và chủ nghĩa đa văn hóa xóa mờ sự khác biệt về chủng
tộc và sự thật về sự phân biệt chủng tộc có tính hệ thống trong xã hội Mỹ. Chủ
nghĩa đa văn hóa tân tự do làm cho sự bất bình đẳng chủng tộc như là một điều
hiển nhiên khi cho rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa, người da màu không phù hợp
để trở thành công dân toàn cầu là do bản thân họ [24].
Nói tóm lại, nước Mỹ
trong mắt tôi là đầy những mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực. Nước Mỹ có một
lý tưởng đẹp nhưng hiện thực lại khá phũ phàng.
Nói đến đây, chắc có người
sẽ nói rằng chẳng phải nước Mỹ vẫn tốt đẹp hơn nhiều đất nước khác hay sao. Tôi
thừa nhận nước Mỹ có những mặt tốt nhưng việc chỉ ra sự thật xấu xí của nước Mỹ
không phải là để so nước Mỹ với các quốc gia khác. Thừa nhận thực tại của nước
Mỹ để thấy rằng nước Mỹ vẫn còn phải đấu tranh để đạt tới được lý tưởng mà những
người lập quốc đề ra.
Tôi nghĩ rằng lý tưởng
ban đầu của nước Mỹ là một điều đáng theo đuổi. Có lẽ vì cái lý tưởng tốt đẹp
đó mà giấc mơ Mỹ, ở một mức độ nào đó, vẫn còn tồn tại vì người ta tin cái lý
tưởng tự do, dân chủ và bình đẳng của đất nước có thể thành hiện thực trong
tương lai (mặc dù hiện tại những điều đó có thể chưa đạt được).
Giấc mơ Mỹ, hiểu theo bài
diễn văn của Martin Luther King Jr., là giấc mơ về một dân tộc vùng lên và sống
đúng theo lý tưởng của nước Mỹ: Tất cả mọi người đều được sinh ra với quyền
bình đẳng [25]. Do đó, khi tôi nghĩ về nước Mỹ, tôi
không phải chỉ thấy sự mâu thuẫn mà còn cả hy vọng.
Hi vọng này chỉ thành hiện
thực khi người da màu đoàn kết và đấu tranh.
Chú thích
[1] Natalia
Molina, “Understanding Race as a Relational Concept,” Modern American
History 1, no. 1 (2018): 104.
[2] Shelley
Streeby, American Sensations: Class, Empire, and the Production of
Popular Culture, vol. 9 (Univ of California Press, 2002), 252.
[3] Natalia
Monila, How Race is Made in America (University of California
Press, 2014), 6.
[4] Sucheng
Chan, Asian Americans: An Interpretive History (Twayne
Publishers, 1991), 3.
[5] Ibid.,
3.
[6] Mae
M Ngai, Impossible Subjects: Illegal Aliens and the Making of Modern
American (Princeton University Press, 2014), 169.
[7] Ibid.,
39.
[8] Ibid.,
101.
[9] Ibid.,
117.
[10] Ibid., 21.
[11] Behdad, A Forgetful Nation: On
Immigration and Cultural Identity in the United States, 113.
[12] Aguilera, Jasmine. “Citizens Facing
Deportation Isn’t New. Here’s What Happened When the U.S. Removed
Mexican-Americans in the 1930s.”, TIME,
August 2, 2019.
[13] Carl J Bon Tempo, Americans at
the Gate: The United States and Refugees During the Cold War (Princeton
University Press, 2008), 17.
[14] Ngai, Impossible Subjects:
Illegal Aliens and the Making of Modern American, 175.
[15] “Trump Freezes Green Cards, Many Work Visas Until End Of Year.”
NPR, June 20, 2020.
[16] Lisa Lowe, Immigrant Acts: On
Asian American Cultural Politics (Duke University Press, 1996), 13.
[17] Tempo, Americans at the Gate:
The United States and Refugees During the Cold War, 5.
[18] Ibid., 30.
[19] Le Yen Espiritu, Body Counts:
The Vietnam War and Militarized Refugees (Univ of California Press,
2014), 17.
[20] Ibid., 100.
[21] Mimi Thi Nguyen, The Gift of
Freedom: War, Debt, and Other Refugee Passages (Duke University Press,
2012), 23.
[22] Jodi Melamed, Represent and
Destroy: Rationalizing Violence in the New Racial Capitalism (U of
Minnesota Press, 2011), 40.
[23] Ibid., 137.
[24] Ibid., 49.
[25] Tạm dịch theo câu của MLK: “I have a
dream that one day this nation will rise up and live out the true meaning of
its creed — we hold these truths to be self-evident: that all men are created
equal.”
No comments:
Post a Comment