Posted on 20/07/2018
Ngày 16/7/2018, Bộ Thông tin và Truyền thông
(BTT-TT) ra quyết định đình bản tạm thời báo Tuổi Trẻ Online trong ba tháng và
xử phạt báo này 220 triệu đồng.
Quyết định này không phải là không có tiền lệ và cơ
sở pháp lý. Trong năm 2017, BTT-TT đã xử phạt 55 cơ quan báo chí với hơn một tỷ đồng. Tuy nhiên,
Tuổi Trẻ Online là một trong số những báo có thương hiệu và uy tín với bạn đọc
cả nước. Số tiền phạt cũng lớn hơn các vụ việc khác. Vì thế, quyết định đình
bản đã gây một số phản ứng nhất định trên mạng xã hội.
Bài viết này thử đưa ra một cách phân tích vụ việc
từ góc nhìn luật pháp và phát triển.
Quyết định của BTT-TT viện dẫn Nghị định số
159/2013/NĐ-CP (NĐ 159) làm cơ sở pháp lý cho việc xử phạt. Theo đó hành vi
phạm luật của báo Tuổi Trẻ Online là: (i) thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng
rất nghiêm trọng – theo điểm a, khoản 5, điều 8; và (ii) thông tin gây mất đoàn
kết dân tộc – theo điểm b, khoản 6, điều 8.
Ngôn từ không rõ ràng của quyết định này khiến người
đọc đặt ra một số câu hỏi nhất định: (1) “ảnh hưởng rất nghiêm trọng” mà thông
tin do báo Tuổi Trẻ đăng cụ thể là gì? Có bằng chứng nào chứng tỏ sự rất nghiêm
trọng đó? (2) như thế nào là “mất đoàn kết dân tộc”? Cơ sở nào để xác định sự
tồn tại của “đoàn kết dân tộc”? Nó đã bị mất đi như thế nào sau khi báo Tuổi
Trẻ đăng bài?
Người viết thử đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi
này nhưng rất khó. Dường như “đoàn kết dân tộc” là một quan điểm chính trị dựa
trên tinh thần dân tộc được Hồ Chí Minh cổ suý lúc sinh thời. Tuy nhiên, việc áp
dụng quan điểm này để lý giải việc xử phạt bài báo của Tuổi Trẻ rất khó khăn.
Hơn nữa, việc áp dụng chính trị trong thực hiện pháp luật làm giảm “quyền năng”
của luật với tư cách một công cụ để tạo lập trật tự xã hội và hướng dẫn hành vi
của tổ chức, cá nhân.
Những vấn đề trong vụ việc này liên quan tới ba vấn
đề lớn hơn của hệ thống pháp luật, cụ thể là: (i) thiếu nguyên tắc để diễn giải
luật; (ii) thiếu quy trình và sự minh bạch để áp dụng luật; (iii) thiếu nguyên
tắc trong việc du nhập các khái niệm, quan điểm luật nước ngoài.
Công cụ của luật pháp là ngôn ngữ. Ngôn ngữ luôn có
nhiều tầng nấc và cách hiểu trong khi luật pháp đòi hỏi tính phổ quát
(universality) – nghĩa là có sự thống nhất trong cách hiểu ở phạm vi toàn xã
hội. Vì thế, nguyên tắc để diễn giải (interpretation) luật được coi là xương
sống của hệ thống pháp luật.
Chủ đề này luôn được các học giả với kiến thức
chuyên sâu về luật pháp tranh luận và phát triển. Mặc dù các quan điểm có thể
khác nhau, nhưng phần lớn thống nhất rằng yêu cầu cơ bản của việc diễn giải
luật là đảm bảo tính logic và hợp lý. Quan niệm về giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay không phải là diễn
giải luật, do vẫn dựa trên lý luận về nhà nước và pháp luật của các nước xã hội
chủ nghĩa. Nó tập trung nhiều vào việc thể hiện quyền lực và sự áp đặt của nhà
nước thay vì tuân thủ những nguyên tắc của tư duy logic để đảm bảo cho xã hội
có thể vận hành một cách có trật tự.
Việc diễn giải luật không tách rời khỏi luật. Để có
thể mang tính phổ quát, luật và quy trình xây dựng luật cũng phải đảm bảo tính
logic, hợp lý và dựa trên những nguyên tắc trừu tượng. Thuật ngữ “quy trình”
hiện nay thường gây phản ứng và nghi ngờ vì thực tế nó không đảm bảo những điều
kiện này.
Cụ thể, chúng ta hãy xem xét một vài ví dụ từ Luật
Báo chí.
Điều 1 ghi: “Luật này quy định về quyền tự do báo
chí”. Điều 3 giải thích từ ngữ, nhưng trong các từ ngữ được giải thích không có
“tự do báo chí”.
Điều 4, khoản 1 quy định báo chí là phương tiện
thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội. Nếu đã là “thiết yếu” thì mọi sự
ngưng trệ hoạt động của báo chí đều không tốt cho đời sống xã hội.
Điều 4, khoản 2 quy định báo chí góp phần giữ gìn
“sự trong sáng” và phát triển tiếng Việt. Bản thân quy định này gán cho báo chí
một nhiệm vụ không đúng với bản chất công việc của nghề này.
Luật Báo chí cũng như các luật có liên quan không
tạo ra một quy trình hợp lý để báo chí có thể lựa chọn thực hiện việc khiếu nại
quyết định xử phạt. Các nhà nghiên cứu lý thuyết cũng như các nghiên cứu thực
địa trong khu vực châu Á đã chỉ ra rằng nếu quy trình không hợp lý và người
khiếu nại có thể biết trước được kết quả (theo cách nói dân dã là “con kiến
kiện củ khoai”) thì họ sẽ không khiếu nại.[1] Điều này không tốt cho việc củng cố tính
chính danh của nhà nước cũng như hiệu quả của pháp luật. Nếu quy trình khiếu
nại được thực hiện công bằng, minh bạch, đảm bảo cho người khiếu nại quyền/cơ
hội trình bày lý do cũng như mục đích hành động thì họ vẫn có thể hài lòng chấp
nhận một quyết định không có lợi.
Hiện nay báo chí cũng như người dân rất ít sử dụng
Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng Hành chính để xem xét lại quyết định hành chính
vì thủ tục cũng như cách vận hành của các cơ quan nhà nước và toà án không đem
lại lòng tin được đối xử công bằng. Ngay trong ngày 16/7, báo Tuổi Trẻ Online
đã tuân thủ quyết định xử phạt; đăng cải chính thông tin; xin lỗi Chủ tịch
nước, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh, bạn đọc; và đóng cửa. Việc
thiếu quy trình để xem xét lại một quyết định hành chính tước đi khả năng xem
xét tính hợp lý của quyết định đó.
Cải chính thông tin là một phần của hoạt động báo
chí. Tuy nhiên, lịch sử báo chí hiện đại thường thấy các chính trị gia công
khai xin lỗi một đối tượng nào đó trên báo chí chứ không phải điều ngược lại là
báo chí công khai xin lỗi chính trị gia. Có lẽ với phần lớn bạn đọc, lời xin
lỗi của Tuổi Trẻ Online được hiểu ngầm là xin lỗi mà không xin lỗi (non-apology
apology).
Những vấn đề nói trên liên quan tới một vấn đề khác
quan trọng hơn là thiếu nguyên tắc trong việc du nhập các khái niệm luật nước
ngoài.
Lịch sử cho thấy các quốc gia (nation-state) luôn
học tập lẫn nhau trong việc xây dựng các mô hình quản trị nhà nước. Quá trình
toàn cầu hoá đã thúc đẩy mạnh hơn hiện tượng này. Tuy nhiên, việc du nhập mô
hình đòi hỏi sự hiểu biết thấu đáo về khái niệm gốc (concept) để từ đó điều
chỉnh phù hợp với hoàn cảnh của địa phương.
Trong vòng 30 năm qua, rất nhiều thuật ngữ từ các hệ
thống pháp luật phát triển đã được du nhập vào luật Việt Nam. Rất tiếc quá
trình du nhập này thiếu nguyên tắc, thiếu hiểu biết một cách thấu đáo, và bị
các quan hệ quyền lực chi phối.
Như đã nhắc tới ở trên, các khái niệm về tổ chức nhà
nước và xã hội thường dựa trên các học thuyết và tư duy trừu tượng nên không
dùng đến thứ ngôn ngữ “nôm na”.
Theo cách hiểu phổ biến, tự do báo chí là không có
sự can thiệp từ các thiết chế bên ngoài, ví dụ nhà nước hoặc tổ chức tôn giáo,
vào hoạt động của báo chí. Hiệp hội nghề nghiệp (ví dụ hội nhà báo) sẽ là tổ
chức đặt ra các tiêu chuẩn đạo đức cho báo chí/phóng viên, trong đó có tiêu
chuẩn thế nào là thông tin sai sự thật. Luật Báo chí đã không phản ánh đúng
khái niệm này. “Tự do báo chí” chỉ đơn giản là việc dịch thuật ngữ “press freedom”
sang tiếng Việt. Các quy định của Luật Báo chí vẫn thể hiện rõ khái niệm “quản
lý nhà nước” là một khái niệm mượn từ mô hình tổ chức nhà nước Xô-viết.
Các học giả phương Tây chuyên nghiên cứu hiện tượng
du nhập pháp luật (legal transplantation) đã tổng hợp một số yếu tố nhất định ảnh hưởng tới sự thành công của
việc du nhập pháp luật. Ví dụ: việc du nhập khái niệm pháp luật đòi hỏi sự tồn
tại của một cộng đồng các nhà nghiên cứu cùng có khả năng tư duy trừu tượng.
Quan hệ quyền lực sẽ ảnh hưởng tới việc ý tưởng nào được phép du nhập. Việt Nam
hiện nay thiếu vắng cộng đồng các nhà nghiên cứu luật pháp có khả năng hiểu tư
duy trừu tượng phương Tây. Nhà nước cũng dùng quyền lực của mình để quyết định
ý tưởng nào có thể được du nhập.
Quyết định xử phạt báo Tuổi Trẻ Online có thể có tác
dụng trong việc “cảnh cáo” Ban biên tập. Tuy nhiên, nó không giúp gì, nếu không
nói là gây hại cho quá trình phát triển hệ thống pháp luật và xã hội Việt Nam.
Hệ thống vẫn mắc kẹt trong tư duy “không quản được
thì cấm”. Trong một thế giới ngày càng liên kết sâu rộng, và thông tin luôn
vượt biên giới quốc gia, không chỉ qua Internet mà còn thông qua hoạt động di
trú, học tập và du lịch của con người, nhà nước không bao giờ có đủ khả năng để
kiểm soát thông tin.
Những quyết định thiếu hợp lý chỉ làm tăng sự hồ
nghi của xã hội đối với nhà nước và vì thế tăng sự bất ổn – thứ mà nhà nước
luôn muốn kiểm soát. Việc nhà nước cần làm là mở rộng không gian cho những trao
đổi, thảo luận công khai, và khuyến khích việc xây dựng các quy trình ra quyết
định dựa trên tư duy lý tính. Chỉ có như vậy hệ thống pháp luật Việt Nam mới có
thể mạnh lên vì lợi ích của cả nhà nước và xã hội.
---------------
Chú
thích:
[1] Học giả hàng đầu trong lĩnh vực
này là Tom Tylyer, người phát triển lý thuyết “công lý thủ tục” (procedural justice). Các nhà nghiên cứu
thực địa tại Trung quốc, hay Nhật Bản có thể kể tới He Xin, Margaret Woo, Frank
Upham.
No comments:
Post a Comment