Thùy Dương – RFI
Đăng
ngày 13-07-2018
Ngày 06/07/2018, Mỹ
chính thức « khai hỏa » cuộc chiến kinh tế chống Trung Quốc. Trên trang
mạng châu Á Asialyst, chuyên gia Jean-Raphaël Chaponnière giới thiệu bài viết «
Trung - Mỹ : 3 mặt trận của cuộc chiến kinh tế mà Trump muốn ».
Jean-Raphaël
Chaponnière là nghiên cứu gia của Viện châu Á - thế kỷ 21 (Pháp) và thành viên
của Trung tâm Nghiên cứu Châu Á. Ông cũng là kinh tế gia thuộc Viện Nghiên Cứu
Phát Triển Pháp, cố vấn kinh tế của đại sứ quán Pháp tại Hàn Quốc và Thổ Nhĩ
Kỳ, đồng tác giả cuốn sách « Những nền kinh tế mới nổi của châu Á :
giữa Nhà nước và thị trường ». (Nhà xuất bản Armand Colin, 2014).
Theo
tác giả bài viết, cuộc chiến mới nổ ra giữa Mỹ và Trung Quốc là trên mặt trận
thương mại, còn trên mặt trận công nghiệp thì cuộc chiến có thể ngày càng trầm
trọng. Và cũng có khả năng cuộc chiến sẽ xảy ra trên mặt trận tài chính.
Nếu
tình hình không được cải thiện, chiến tranh kinh tế có thể gây những tác động
xấu tương tự khủng hoảng toàn cầu 2008. Rất có thể tổng thu nhập quốc nội GDP
của cả Mỹ và Trung Quốc đều mất 4 điểm, châu Âu và các nước châu Á khác có thể
thiệt hại nhiều hơn một chút. Cuộc chiến cũng ảnh hưởng tới cả hoạt động của
các công ty trên toàn cầu.
Mục
tiêu của Mỹ trên mặt trận thương mại là gì ?
Năm
2017, trao đổi hàng hóa Mỹ - Trung đạt tổng giá trị 620 tỉ đô la. Thâm hụt
thương mại của Mỹ là 384 tỉ đô la, trong khi thặng dư dịch vụ chỉ đạt 38 tỉ đô
la. Quan hệ thương mại song phương không chỉ thể hiện ở lượng hàng hóa trao đổi
qua biên giới mà liên quan tới hoạt động của các chi nhánh. Tổng doanh số bán
hàng của các chi nhánh của các công ty Mỹ tại Trung Quốc đạt 272 tỉ đô la, cao
gần gấp đôi giá trị xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc.
Ngược
lại, doanh thu của các chi nhánh Trung Quốc tại Mỹ chỉ là 10 tỉ đô la. Tính cả
doanh số này, Deutsche Bank cho rằng thâm hụt thương mại Mỹ - Trung đã giảm từ
111 tỉ đô la vào năm 2008 xuống còn 30 tỉ đô la vào năm 2016, trong khi theo
Hải quan Mỹ, thâm hụt thương mại tăng từ 271 tỉ đô la lên tới 384 tỉ đô la vào
năm 2017.
Cho
dù cán cân thương mại đang dần cân bằng trở lại, bất chấp những lời hứa của Bắc
Kinh sau mớ bòng bong ZTE, tổng thống Mỹ Donald Trump và các cố vấn của ông vẫn
không « hạ nhiệt ». Nhà Trắng đang « theo đuổi » nhiều mục tiêu
khác. Vài tháng trước kỳ bầu cử Quốc Hội giữa nhiệm kỳ, tổng thống Donald Trump
muốn chứng tỏ ông giữ lời hứa với cử tri.
Tiếp
nối truyền thống của những người tiền nhiệm, từ Reagan tới Georges W.Bush,
Obama, ông Trump nâng thuế đối với thép nhập khẩu vào Mỹ. Sự khác biệt là Trung
Quốc không phải là nhà cung cấp thép chính của Hoa Kỳ và tổng thống Trump dùng
lá bài an ninh quốc gia để tránh không phải thông qua Quốc Hội. Quyết định tăng
thuế nhập khẩu thép bị các nhà sản xuất xe hơi chỉ trích nhưng vị tổng thống tỉ
phú vẫn dùng an ninh quốc gia làm « lá chắn ».
Mục
tiêu thứ hai là các cố vấn của ông Trump muốn ngăn chặn sự trỗi dậy mạnh mẽ của
ngành công nghiệp Trung Quốc và tiến hành tăng thuế đối với các sản phẩm nằm
trong kế hoạch « Sản xuất chế biến tại Trung Quốc 2025 ». Nhưng tăng
thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc cũng đẩy giá hàng
hoá sản xuất tại Mỹ lên cao hơn, tác động tiêu cực tới khả năng mua sắm của
người dân Mỹ và khả năng cạnh tranh của các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ.
Trên
mặt trận công nghiệp, mục tiêu của Mỹ là gì ?
Mục
tiêu của các quan chức diều hâu của Nhà Trắng trên mặt trận công nghiệp không
chỉ là trừng phạt Trung Quốc. Washington muốn kìm hãm các bước tiến của Bắc
Kinh, cản trở việc Trung Quốc đòi chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài hay đầu tư của Trung Quốc vào Mỹ. Lựa chọn của Mỹ là một sự
thay đổi hoàn toàn so với tiến trình toàn cầu hóa.
Nên
nhớ rằng Trung Quốc là một trong những nước đầu tiên đón nhận đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài. Và chính đầu tư trực tiếp nước ngoài mang tới cho nền công
nghiệp Trung Quốc rất nhiều công nghệ. Vào được thị trường Trung Quốc là mơ ước
của nhiều tập đoàn nước ngoài, còn Bắc Kinh mở cửa thị trường để đổi lấy công
nghệ của các doanh nghiệp này.
Trong
nhiều năm, lợi nhuận nếu vào được thị trường Trung Quốc lớn tới mức nhiều tập
đoàn nước ngoài chấp nhận chuyển giao công nghệ cho Bắc Kinh. Nhưng từ vài năm
trở lại đây, ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngần ngại đầu tư vào Trung Quốc.
Một trong các mục tiêu của Hoa Kỳ trong việc giảm thuế doanh nghiệp là nhằm hạn
chế các công ty Mỹ đầu tư vào thị trường Trung Quốc. Theo thăm dò của Phòng
Thương Mại Mỹ hồi tháng 12/2017, 6/10 doanh nghiệp Mỹ tại Trung Quốc đang muốn
rút lui khỏi thị trường Trung Quốc.
Còn
đối với các doanh nghiệp Trung Quốc, họ muốn đầu tư ra nước ngoài cũng để tìm
kiếm nguồn công nghệ. Từ năm 2014 đến năm 2016, có nhiều doanh nghiệp Trung
Quốc đầu tư vào Mỹ hơn là các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm
2017, nhất là trong năm 2018, đầu tư vào Mỹ sụt giảm : Bắc Kinh hạn chế cấp
giấy phép cho các công ty đầu tư ra nước ngoài vì sợ « chảy máu nguồn vốn ».
Sự sụt giảm này phần nào cũng do quan hệ song phương xuống cấp và sự mạnh tay
của Ủy ban đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ.
Năm
2017, nhà xản xuất General Motors bán được nhiều xe hơi tại thị trường Trung
Quốc (4 triệu xe) hơn là ở Mỹ (3 triệu xe). Đối với nhiều doanh nghiệp lớn của
Mỹ, sự phát triển tại thị trường Trung Quốc còn quan trọng hơn cả ở trong nước.
Hơn 700 chi nhánh công ty Mỹ ở Trung Quốc có thể trở thành « con tin »
trong cuộc chiến kinh tế giữa hai cường quốc. Khai chiến trên mặt trận công
nghiệp sẽ ảnh hưởng nhiều đến kinh tế Hoa Kỳ, còn hơn cả biện pháp tăng thuế.
Nhưng
đó cũng là một con dao hai lưỡi. Đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Trung Quốc sẽ
sụt giảm mạnh, tác động xấu tới kinh tế Trung Quốc, hiện đang chững lại.
Còn
trên mặt trận tài chính ?
Trong
xung đột với Mỹ, Trung Quốc có hai loại vũ khí khác : tỉ giá đồng nhân dân tệ
và trái phiếu Kho bạc Mỹ. Từ năm 2005, chính phủ Trung Quốc đã tăng giá đồng
nhân dân tệ khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới sản xuất những mặt hàng cao
cấp hơn. Bị khựng lại do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính sách tăng giá đồng
nhân dân tệ lại tiếp tục cho tới năm 2013. Sau nhiều tháng đồng nhân dân tệ
giảm giá, Bắc Kinh lại tăng giá đồng tiền của mình.
Trong
hai tháng qua, đồng nhân dân tệ bị giảm giá mạnh nhất. Để tránh hiện tượng chảy
máu vốn, Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã có các biện pháp hạn chế giảm giá
đồng tiền quốc gia. Nhưng liệu Trung Quốc có thể tiếp tục phá giá đồng tiền để
bù đắp thiệt hại do Mỹ tăng mức thuế quan nhắm vào hàng Trung Quốc ? Sử dụng
loại vũ khí tỉ giá là một lựa chọn nguy hiểm vì có thể gây tác động ngược trở
lại đối với lạm phát tại Trung Quốc và Bắc Kinh sẽ bị Mỹ coi là có hành vi gây
chiến.
Trung
Quốc hiện vẫn là chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Hoa Kỳ, với hơn 1.000 tỉ đô la
vào năm 2018. Liệu Bắc Kinh có thể sử dụng vũ khí này để chống Washington ?
Việc Bắc Kinh nắm giữ trái phiếu Kho bạc Mỹ không giúp Trung Quốc gây ảnh hưởng
tới cách Hoa Kỳ quản lý nền kinh tế của mình, vì Bắc Kinh chỉ nắm 5% nợ công
của Mỹ, trong khi 70% số nợ nằm trong tay các cơ quan liên bang, trong đó có
quỹ an sinh xã hội, các nhà băng, doanh nghiệp và người dân Mỹ. Nếu Trung Quốc
bán tháo trái phiếu Kho bạc Mỹ mà họ đang có trong tay, kinh tế Mỹ cũng chẳng
vì thế mà khó khăn hơn, trong khi chính nền kinh tế Trung Quốc mới bị ảnh
hưởng.
No comments:
Post a Comment