Posted
on 16/07/2018
Bị cho
là “phạm tội có tính chất côn đồ” như một tình tiết tăng nặng, Đặng Văn Hiến bị
toà phúc thẩm tuyên y án tử hình. Nhưng thực tế vụ án và các tiền lệ xét xử của
Việt Nam cho thấy đây là một quan điểm bất hợp lý của Toà án Nhân dân (TAND) cấp
cao.
Ngày
12-7, Toà án Nhân dân (TAND) cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc
thẩm vụ nổ súng vào rạng sáng 23-10-2016 khiến 3 người chết, 13 người bị thương
tại tiểu khu 1535 xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông.
Dù TAND
cấp cao đã giảm án cho nhiều người, kể cả các bị cáo chỉ đạo cuộc bố ráp của
Công ty Long Sơn đối với khu đất như ông Nghiêm Thiên Xuân Sửu và Phạm Công Thiện;
bị cáo Đặng Văn Hiến vẫn bị tuyên y án tử hình với căn cứ do ông Đặng Văn Hiến
đã phạm tội giết người thuộc nhiều trường hợp tăng nặng như: “giết nhiều người”
và “có tính chất côn đồ”.
Trong
phạm vi của mình, bài viết sẽ không lạm bàn đến tính đúng sai tổng quát của vụ
việc. Theo hồ sơ án, đất mà công ty Long Sơn tự ý thu hồi lại đã được Ủy ban
Nhân dân giao cho công ty này làm dự án nông lâm nghiệp từ lâu, nhưng trong quá
trình chưa thực hiện dự án, một số nông dân đã tự ý xâm canh. Tuy nhiên cũng có
quan điểm cho rằng phần đất của các nông dân đã được sử dụng, canh tác nhiều
năm; Ủy ban Nhân dân bàn giao đất kèm theo yêu cầu công ty Long Sơn phải tự
mình thỏa thuận thu mua đất từ phía nông dân.
Dù sao
thì, có một đồng thuận chung là việc xem hành động của ông Hiến có “tính chất
côn đồ” có phần nặng nề và chưa phù hợp với tinh thần pháp luật Việt Nam.
Bài viết
sẽ xem xét các quan điểm pháp lý liên quan đến khái niệm “có tính chất côn đồ”
của tội danh giết người và kết hợp nhiều tiền lệ của nhiều tòa cấp cao với hy vọng
thống nhất giải thích pháp lý cho khái niệm này, đồng thời xây dựng cơ sở cho
việc xin ân xá, giảm án cho ông Hiến hoặc đề nghị giám đốc thẩm vụ án.
Nền
tảng lý thuyết pháp lý
Quan điểm
của các chuyên gia pháp lý hình sự Việt Nam về “tính chất côn đồ” khi thực hiện
hành vi phạm tội thường được chia ra làm hai
trường phái tạm thời: “bao gồm nhân thân” và “không bao gồm nhân thân”.
Ở trường
phái thứ nhất, theo luật sư Đinh Văn Quế, trong các sách của mình như Các
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và Bình luận khoa học
Bộ Luật Hình sự, Phần các tội phạm, “phạm tội có tính chất côn đồ” là trường
hợp khi phạm tội, người phạm tội rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc
sống. Những người này được xem là có hành vi ngang ngược và càn quấy. Họ chỉ vì
những nguyên cớ nhỏ nhặt, nhưng vẫn có thể cố tình gây hấn, từ đó thực hiện
hành vi phạm tội.
Tính chất
côn đồ theo trường phái này phụ thuộc vào hai yếu tố: (1) nhân thân người phạm
tội (với các thành tố như: quá khứ, tính cách, thái độ xử sự của họ trong cuộc
sống hàng ngày); và (2) không gian, địa điểm nơi xảy ra tội phạm.
Đối với
trường phái thứ hai, họ phủ nhận yếu tố nhân thân của người phạm tội. Trong quyển
Sổ tay Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao xuất bản bởi Nhà xuất bản
Lao động, các tác giả phân biệt rõ khái niệm “côn đồ’” là kẻ chuyên gây sự,
hành hung; còn “phạm tội có tính chất côn đồ’” là phạm tội hoàn toàn từ nguyên
cớ do mình gây ra.
Trường
phái này mong muốn loại bỏ yếu tố nhân thân của người phạm tội và chỉ tập trung
vào hành vi khi thực hiện tội phạm mà thôi. Do đó, “côn đồ” sẽ được hiểu ở khía
cạnh là thuộc tính, phản ánh tính nguy hiểm của hành vi phạm tội đã được thực
hiện.
Tuy
nhiên, dù có một số khác biệt, cả hai trường phái đều thống nhất là những người
phạm tội bị xếp vào tình tiết tăng nặng “có tính chất côn đồ” là những người phạm
tội quyết định thực hiện hành vi phạm tội một cách quyết liệt, không tương xứng,
không phù hợp với mâu thuẫn, hoàn cảnh, diễn biến sự việc xuất phát từ những
nguyên cớ nhỏ nhặt (mâu thuẫn, xích mích thông thường…) hay thậm chí vô cớ.
Tuy
nhiên, tất cả những thông tin trên chỉ dừng lại ở mức độ lý thuyết, vậy thực tiễn
xét xử được tòa vận dụng ra sao?
Tiền
lệ xét xử đối với phạm tội ‘có tính chất côn đồ’
Những vụ
án được liệt kê và phân tích dưới đây sẽ không phải là án lệ theo đúng tiêu chuẩn
công bố bởi Hội đồng Thẩm phán, TAND Tối cao; tuy nhiên, chúng thể hiện một tiền
lệ xét xử chung trên cả nước đối với cách hiểu phạm tội “có tính chất côn đồ”,
từ đó đối chiếu với cách hiểu do TAND Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đưa ra
trong vụ án của ông Đặng Văn Hiến.
Ở miền
Trung, chúng ta có thể xem xét Bản án
số: 202/2017/HS-PT ngày 11/08/2017, cả bị cáo Vi Văn V liên quan đến tội
giết người, được xét xử bởi TAND Cấp cao tại Đà Nẵng.
Trong vụ
án này, Vi Văn V và Lê Quang H là những người làm rẫy thuê, sau một buổi ăn uống
chung thì Vi Văn V bị anh Lê Quang H sai vặt nhưng không chịu thực hiện. Vì vậy,
V bị anh này dùng cây cao su thúc vào lưng và tán vào mặt nhiều lần. Sau khi được
một nhân chứng khác can ngăn, V tiếp tục bị anh H quát tháo và đe dọa “Tao nói
mày không nghe thì tao đập mày chết” nên V tức giận dùng cây cao su gần bếp
đập nhiều lần lên đầu anh H khiến anh ngã xuống sàn bất tỉnh. Anh H chết không
lâu sau đó.
Là lời
qua tiếng lại trong một vụ tranh cãi thường ngày trên bàn nhậu nhưng lại dẫn đến
chết người nghiêm trọng, tuy nhiên, Tòa Cấp cao Đà Nẵng không chấp nhận việc áp
dụng tình tiết tăng nặng “có tính chất côn đồ” trong bản án sơ thẩm.
Theo
Tòa này, Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm đã ghi nhận bị hại có một phần lỗi
khi liên tục tấn công và đe dọa bị cáo. Trong bản án sơ thẩm cũng đã ghi nhận lỗi
của bị hại và tác động tâm lý của nó lên bị cáo. Vì vậy, Tòa Cấp cao Đà Nẵng khẳng
định việc áp dụng tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” là không phù hợp với
thực tế vụ án và ghi nhận pháp lý bên trong quá trình điều tra xét xử.
Nạn
nhân có một phần lỗi,
có vẻ như là một yếu tố quan trọng để xem xét người thực hiện hành vi phạm tội
có thực hiện với tính chất côn đồ hay không. Điều này cũng khá phù hợp với nền
tảng lý thuyết mà chúng ta đã có dịp lướt qua ở phần trên. V rõ ràng không vô cớ
sinh sự hay cố gắng phạm tội quyết liệt không tương xứng với thái độ của anh H.
Do đó, dù vẫn phạm tội giết người, V không thể bị xem là phạm tội “có tính chất
côn đồ”.
Ngược
vào Nam, ta có Bản án
số: 342/2017/HS-PT ngày 07/07/2017 được Tòa Cấp Cao thành phố Hồ Chí
Minh xét xử.
Trong vụ
án này, chị C và anh D sống chung như vợ chồng. Cũng sau một buổi uống rượu,
hai anh chị xảy ra mâu thuẫn và xô xát, khiến những người cùng ở đó phải can
ngăn. Sau đó, chị C xuống bếp lấy dao giấu trong người. Khi chị cùng con chuẩn
bị ra về, thấy anh D tiếp tục chửi bới và định xông đến đánh thì, chị rút dao
ra đâm chết anh D tại chỗ. Chị D bị khởi tố về tội giết người cùng với tình tiết
tăng nặng “có tính côn đồ”.
Vụ án
tương đối phức tạp và bị kháng cáo ở nhiều điểm. Song, riêng về tình tiết “có
tính côn đồ”, Tòa phủ nhận luận điểm của Viện Kiểm sát truy tố là chị C đâm anh
D chỉ vì chị đang bế con chuẩn bị ra về (và do đó, có tính côn đồ). Theo lời
khai của C tại tòa, C do có con riêng nên C và D đã có nhiều mâu thuẫn từ trước.
Tòa yêu cầu Viện Kiểm sát cần phải xem xét, điều tra rõ những mâu thuẫn trước
và ngay tại thời điểm xảy ra xung đột để xác định việc khởi tố tội giết người tại
tình tiết “có tính côn đồ” là hợp lý hay chưa.
Tựu
trung, tòa cho rằng việc xem xét xem mâu thuẫn, xung đột tích tụ trong một thời
gian mới làm bùng phát hành vi vi phạm pháp luật hay không là một căn cứ quan
trọng để áp dụng tình tiết “có tính chất côn đồ”.
Hay ra
Bắc với Tòa án Cấp Cao tại Hà Nội, chúng ta có thể thấy xu hướng xét xử tương tự.
Trong Bản
án số: 319/2018/HSPT ngày 24/05/2018, tòa cho rằng thủ phạm bị đánh trước,
bị hại có một phần lỗi, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “bị kích động
về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”.
Kết
thúc có hậu nào cho vụ án Đặng Văn Hiến?
Với những
căn cứ trên, có thể nói vụ án của ông Đặng Văn Hiến tập hợp đầy đủ mọi yếu tố
loại trừ áp dụng tình tiết định khung “có tính chất côn đồ”.
Nếu xét
theo nguồn gốc mâu thuẫn và quá trình mâu thuẫn được chính Tòa Cấp cao Thành phố
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, rõ ràng ông Hiến không chuẩn bị và thực hiện hành vi của
mình theo một cách tự nhiên, ngang ngược hay càn quấy.
Tám năm
dài tranh chấp đất đai đã không được cơ quan nhà nước xử
lý. Công ty Long Sơn cũng không đường hoàng đưa tranh chấp ra giải quyết
tranh chấp ở tòa mà liên tục sử dụng các biện pháp khủng bố, đe dọa nhiều hộ
nông dân đang có mâu thuẫn với mình. Tranh chấp giữa Công ty Long Sơn (mà đại
diện là nhóm nhân công tấn công) và các nông dân giữ đất (đại diện là ông Hiến)
không phải là một vụ việc mới phát sinh, có tính chất nhất thời để có thể định
khung “có tính côn đồ”. Nó đã được tích tụ lâu dài và bùng nổ vào rạng sáng
ngày 23/10/2016.
Mặt
khác, nếu xem xét tình huống xảy ra hành vi phạm tội, chúng ta cũng thấy được
đây không phải là loại hoàn cảnh mà “tính côn đồ” hay xuất hiện trong nhiều bản
án. Ông Hiến không đối diện với những tình tiết đời thường, tiểu tiết, nhỏ nhặt
để rồi càn quấy thực hiện hành vi phạm tội.
Việc bị
bao vây bởi hàng chục thanh niên, trai tráng cùng với gậy gộc và xe ủi (vốn đã
phá hoại hàng chục triệu giá trị tiền cây trồng trước đó) không phải là chuyện
vụn vặt hằng ngày. Và câu chuyện cũng không bình thường đến mức xã hội có một định
hướng xử sự quy chuẩn, để từ đó đánh giá hành vi của ông là coi thường quy tắc
xử sự chuẩn mực của đời sống xã hội.
Bạn sẽ
làm gì khi một nhóm người đông đảo và hung hãn với gậy gộc, xe ủi vừa phá hoại
cổng – rào, sẵn sàng tiến vào san bằng nhà bạn; gây thương tích cho bạn, người
nhà bạn nếu họ thấy cần thiết? Không ai dám chắc chúng ta sẽ hành xử thế nào
trong tình huống như thế cả. Đó là lý do quy tắc xử sự thông thường không tồn tại
để xác định hành vi của ông Hiến có “côn đồ” hay không.
Riêng yếu
tố lỗi của phía nạn nhân (do thực hiện hành vi cưỡng chế đất trái pháp luật
theo lệnh công ty Long Sơn; phá hoại tài sản, tấn công cố ý gây thương tích…)
không thể rõ ràng hơn với bản án dành cho các chức danh lãnh đạo của công ty.
Còn tình tiết giảm nhẹ vì thực hiện hành vi do tinh thần trạng thái bị kích động
mạnh cũng hoàn toàn có thể áp dụng.
Hiển
nhiên, người viết vẫn công nhận hành vi dùng súng bắn người của ông Hiến là vượt
mức phòng vệ chính đáng. Đó là lý do không thể phản đối việc ông phải bị xử với
tội danh giết người. Tuy nhiên, việc định khung ông với tình tiết “côn đồ” chắc
chắn chưa xác đáng với tiền lệ xét xử của các tòa Bắc, Trung, Nam.
Cùng với
bản chất án đất đai là một trong những loại án nhạy cảm nhất tại Việt Nam qua
hàng thế kỷ, có nhiều lý do để mong muốn Chủ tịch nước có thể ra quyết định ân
xá hay giảm án cho ông Hiến. Nhưng mặt khác, cũng có nhiều lý do để bản án nên
được kháng nghị giám đốc thẩm nhằm đảm bảo rằng pháp luật Việt Nam được áp dụng
một cách thống nhất và đồng bộ, đúng với kỳ vọng cải cách tư pháp của cả hệ thống
chính trị đặt ra hàng chục năm nay.
--------------
Posted
on 16/07/2018
Cơ hội
được sống của nông dân Đặng Văn Hiến ngày càng hẹp lại khi ông bị tuyên y án tử
hình trong phiên toà phúc thẩm ngày 12/05/2018 vừa qua, trong khi các bị cáo
khác thì đều được giảm án.
Thật sự
ông Hiến đã bắn những phát súng thể hiện bản chất côn đồ không thể cải tạo được,
hay nó chỉ xảy ra vì gia đình anh đã bị ức hiếp trong một thời gian dài kèm
theo nỗi sợ khi bị lực lượng hơn 30 người của Công ty Long Sơn bao vây vào buổi
sáng định mệnh đó?
ĐẶNG VĂN HIẾN SAU PHIÊN TOÀ XÉT XỬ PHÚC THẨM
NGÀY 12/07/2018. ẢNH: BÁO TUỔI TRẺ.
Không
chứng minh được tính chất côn đồ của ông Hiến
Trả lời
phỏng vấn Luật Khoa tạp chí, luật sư Nguyễn Văn Quynh, người bào chữa cho ba bị
cáo là Hiến, Bình và Trường, cho biết biên bản thực hiện nghiệm hiện trường có
nhiều mâu thuẫn.
Theo luật
sư Quynh, trong biên bản này có 10 điểm bắn khác nhau nhưng lại cực kỳ mâu thuẫn.
Ông lý giải: “Bây giờ bạn thử đứng xa 23 mét và kêu người phía trước cởi áo ra,
rồi nhằm bắn từng người một. Đây là một khoảng cách rất xa, trong thực tế không
thể làm được chuyện này. Trong khi đó, lời khai của những người tại hiện trường
là Hiến bị đẩy đi và bắn loạn xạ chứ không phải là ngắm bắn. Tuy nhiên, đây
chính là điểm mà Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định Hiến có mức kịch khung tăng nặng
thể hiện tính chất côn đồ.”
Hiện trường máy ủi phá vườn điều nhà ông Hiến
vào ngày 26/10/2016. Ảnh: Luật sư Nguyễn Văn Quynh.
Đồng
quan điểm, luật sư Nguyễn Thạch Thảo, người cùng bào chữa cho ông Hiến, cho rằng
ông Hiến chọn khoảng cách từ 20 – 30 mét để nổ súng chứ không phải ở khoảng
cách 2-3 mét, rồi nhằm bắn vào đầu và ngực của các nạn nhân.
“Với khoảng cách đó Hiến không thể nào có thời gian để nhắm bắn từng vị trí
trọng yếu, vì khung cảnh lúc đó hỗn loạn, các công nhân Long Sơn rất máu lửa với
đầy đủ công cụ hỗ trợ thì Hiến chỉ bắn loạn xạ với đám đông chứ không thể nói
Hiến thực hiện hành vi đó là nhằm bắn và có tính chất côn đồ”, ông nói.
Hành vi
giết người có tính chất côn đồ được quy định tại Điểm n của Khoản 1 Điều 93 Bộ
luật Hình sự (BLHS) năm 1999, ngoài ra còn được xem là tinh tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự tại Điều 48 của bộ luật này.
Khi bào
chữa, luật sư Quynh lập luận rằng việc áp dụng điều khoản này là không phù hợp
khi xét về bối cảnh và tinh thần bị dồn nén trong thời gian dài.
“Chúng
tôi đã chứng minh với điều kiện phạm tội trong khoảng từ 4h30 sáng đến 5h00 để
chống chọi với lực lượng đông, bố ráp và không cho Hiến ra ngoài. Lực lượng rất
hùng hậu và chỉ có một mình Hiến thì áp dụng tình tiết kịch khung tăng nặng là
có tính chất côn đồ là không tương xứng”, luật sư Quynh nói.
Hạn
chế quyền bào chữa của các luật sư
Trong
các vụ án mà bị cáo có thể bị kết án tử hình thì quyền được xét xử công bằng phải
được đảm bảo một cách nghiêm ngặt nhất. Uỷ ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc nêu rõ,
các bị cáo trong các vụ án có liên quan đến án tử hình phải được luật sư trợ
giúp một cách có hiệu quả trong tất cả các giai đoạn của tiến trình tố tụng.
Ông Đặng
Văn Hiến đã không có luật sư tham gia bào chữa ngay sau khi ra đầu thú. Theo luật
sư Quynh, Hiến đã khai là có ngắm bắn vào các nạn nhân, tuy nhiên, Hiến khai
khi vừa mới ra đầu thú trong trạng thái khủng hoảng tinh thần và không có mặt
luật sư, trong khi đó, lời khai của nhân chứng thì không nói đến việc Hiến có
ngắm bắn.
Mặt
khác, biên bản thực nghiệm hiện trường không có sự tham gia của các luật sư.
“Điều này là vi phạm thủ tục tố tụng hình sự, vi phạm quyền được bào chữa của bị
can, bị cáo”, luật sư Quynh nói.
Luật sư Nguyễn Văn Quynh (trái) và luật sư
Nguyễn Thạch Thảo.
Bên cạnh
đó, luật sư Nguyễn Thạch Thảo cho biết thêm, HĐXX đã hạn chế quyền tranh luận,
thẩm vấn, bào chữa tại phiên toà phúc thẩm.
Ông nói
rằng các vấn đề mà luật sư đưa ra thì HĐXX lại ngắt ngang là đã biết rồi, và
không cần trình bày thêm. “Tương tự trong phần thẩm vấn các bị cáo cũng vậy,
HĐXX thường cắt ngang các luật sư và nói rằng vấn đề này trong hồ sơ đã nêu rồi,
các luật sư không nên đặt lại câu hỏi. HĐXX cũng không cho các luật sư tranh luận
với đại diện của Viện Kiểm sát”, luật sư Thảo cho biết.
Gia
đình ông Hiến đã bồi thường cho các gia đình nạn nhân, và được ba gia đình có
người thân bị bắn chết viết đơn xin giảm án cho Hiến. Bên cạnh, mặc dù lẩn
trốn ngay sau khi gây án, nhưng Hiến đã ra đầu thú cơ quan điều tra và khai báo
thành khẩn.
Đây là
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho ông Hiến được quy định trong Bộ
luật Hình sự. Hơn nữa, ông Hiến đã có nhiều hơn hai tình tiết giảm nhẹ nên toà
có thể xét một khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, nhưng HĐXX đã không xem xét đến
những tình tiết này.
Các luật
sư cũng cho rằng phiên toà đã không xem xét đến tình trạng tranh chấp, xung đột
bạo lực liên quan đến đất đai không được giải quyết trong gần tám năm đã tạo ra
những dồn nén dẫn đến vụ nổ súng ngày hôm đó.
Giám
đốc thẩm là gì và được tiến hành như thế nào
Hai luật
sư bào chữa cho Hiến cho rằng hiện trường vụ án, việc xác định tính chất côn đồ
và các tình tiết khách quan của vụ án cần phải được xem xét. Theo đó, các luật
sư sẽ kiến nghị để vụ án được tiến hành giám đốc thẩm.
Vậy
giám đốc thẩm là gì? Và ai có thể kiến nghị giám đốc thẩm vụ án?
Hiểu
nôm na, giám đốc thẩm là việc toà cấp cao hoặc tối cao xem xét lại bản án đã có
hiệu lực pháp luật của toà cấp dưới, theo kháng nghị của Viện trưởng VKSND hoặc
Chánh án TAND do phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Như vậy
ở đây có hai bước: Viện trưởng VKSND hoặc Chánh án TAND phải có kháng nghị
lên toà án, sau đó toà án mang vụ án ra xét xử lại.
Đối với
trường hợp án tử hình, vụ án đương nhiên được Viện trưởng VKSND Tối cao hoặc
Chánh án TAND Tối cao xem xét xem có cần kháng nghị hay không, theo Điều 367 Bộ
luật Tố tụng Hình sự.
Trường
hợp giám đốc thẩm gần đây liên quan đến án tử hình là trường hợp của ông Hàn
Đức Long.
Sau bồn
lần bị tuyên án tử hình trong 11 năm, phiên toà xét xử giám đốc thẩm vụ án của
ông Long năm 2014 đã tuyên huỷ bỏ hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm trước đó để
VKSND tỉnh Bắc Giang điều tra lại. Sau đó, VKSND Bắc Giang đã đình chỉ vụ án và
trả tự do cho ông Long.
Có ba
căn cứ để yêu cầu giám đốc thẩm bản án, thứ nhất là kết luận trong bản án, quyết
định của toà án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; thứ hai
là quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến sai lầm
nghiêm trọng; và thứ ba là có sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật.
Như vậy,
trường hợp của Đặng Văn Hiến có thể kiến nghị giám đốc thẩm vì các bản án của
toà đã không phù hợp với các tình tiết khách quan như đã nêu trong bài viết.
Theo Bộ
luật Tố tụng Hình sự 2015 thì người bị kết án hay bất cứ ai cũng có quyền kiến
nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm vụ án nếu phát hiện ra các
sai phạm gây ra bất công cho người bị kết án.
Địa chỉ
họ cần tìm đến là văn phòng của Viện trưởng VKSND Tối cao và Chánh án TAND Tối
cao, vốn là hai vị trí có quyền đề nghị TAND Tối cao giám đốc thẩm vụ án này.
Theo luật, việc có kháng nghị hay không là nằm trong khoảng hơn hai tháng sau
khi bản án có hiệu lực.
*
*
Bộ
luật Tố tụng Hình sự 2015:
Điều
367. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành
1. Thủ
tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành được thực hiện:
a) Sau
khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay cho Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao;
b) Sau
khi đã xem xét hồ sơ vụ án để quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng
nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án nhân dân tối cao phải chuyển hồ sơ vụ
án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trả lại hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân tối cao;
c)
Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng
nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
d)
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án
được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước;
đ) Bản
án tử hình được thi hành nếu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm và người bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.
Trường
hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội
đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Tòa án nhân dân tối cao quyết định không
chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình thì Tòa án nhân dân tối cao
phải thông báo ngay cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm hình
phạt tử hình;
e) Trường
hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình được
thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.
2. Khi
có căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự thì Chánh án Tòa án
đã xét xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án tử hình và báo cáo Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân
cho người bị kết án.
-----------------------
Tài
liệu tham khảo:
- Bộ
luật Hình sự năm 1999
- Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2015
- Sổ
tay Theo dõi việc Xét xử trong Tố tụng Hình sự (International Commission
of Jurists)
No comments:
Post a Comment