04:06:pm
28/04/13
Viên
đại sứ của Việt Nam tại Na Uy, Tạ Văn Thông không muốn tác phẩm điêu khắc “Hoa
Biển” sẽ được dựng lên tại Bygdøy, nhằm lưu niệm những thuyền nhân Việt Nam và
thủy thủ Na Uy đã cứu vớt số đông thuyèn nhân. Ông ta nói điều đó có thể gây ra
những hậu quả cho mối quan hệ giữa Na Uy và Việt Nam.
Theo
nhật báo Dagsavisen, ý ông ta là tượng đài này có thể được dùng vào mục đích
chính trị như “làm giảm đi nỗ lực thống nhất một Việt Nam”.
Viên
đại sứ này đã có những cuộc họp với hội đồng thành phố Oslo và ban quản trị Bảo
Tàng Hàng Hải Na Uy (BTHHN) tại Bygdøy. Cho dù tượng đài được dựng lên, vẫn còn
xuất hiện một số tình huống như con sâu trong nồi canh đối với cộng đồng tỵ nạn
Việt Nam tại Na Uy. BTHHN đã nói rõ rằng họ không muốn những bày tỏ chính kiến
tại phần đất sở hữu này. Bảo tàng cũng đã bác bỏ mong muốn của Hội Người Việt
Tỵ Nạn về việc khắc cờ Vàng miền Nam trên tượng đài.
Độc tài Việt Nam
Hồ
Chí Minh bắt đầu con đường quyền lực của ông ta năm 1945. Trong vài tuần lễ ông
ta đã loại trừ những người đối lập chính trị với ông ta. Mục đích rõ ràng nhằm
đưa chế độ độc tài vô sản vào Việt Nam. Tháng giêng năm 1956, tờ báo chính của
đảng cộng sản, Nhân Dân viết: “Giai cấp địa chủ không chịu ngồi yên trước khi
họ bị tiêu diệt”. Khẩu hiệu tại các tỉnh miền Bắc là “Thà mười người
vô tội chết còn hơn là một kẻ thù còn sống sót”. Những tòa án nhân dân lưu động, những ủy ban “loại trừ kẻ phản
bội”, đã giết đi 1,7 triệu mạng sống trong thời kỳ 1945 – 1987. Cuộc chiến Việt
Nam bắt đầu khi Bắc Việt xâm nhập và dần dần đã xâm chiếm Miền Nam, để rồi gom
cả nước dưới sự cai trị độc tài cộng sản. Người miền Bắc thật sự nghĩ gì với
một dự án quốc gia, thời gian sau này đã cho thấy.
Mặt trận cam go
Trong
những nhóm ủng hộ Măt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) (du kích cộng sản),
người ta đã nhận thức rõ về những lời cảnh báo và chỉ trích đối với những nét
độc tài toàn trị của nó. Sự chỉ trích này chủ yếu đã bị lờ qua hay chế nhạo. Họ
nghĩ rằng chỉ trích MTGPMN là đã ủng hộ người Mỹ. Điều này, cũng như trong đảng
Lao Động, đã giành thắng được sự chú ý.
Những
ai xem cuộc chiến như là một thảm kịch – cả việc tham chiến của Mỹ lẫn sự bành
trướng cộng sản, đều đáng bị chỉ trích – đã bị đóng dấu như “những kẻ thực dân
ngụy trang”. Phe đối lập Việt Nam này đã bị thẳng thừng từ chối.
Người
Mỹ đã để lại một đất nước tan nát bom đạn. Những người cộng sản đã làm những
phần còn lại thành những trại cải tạo và một chế độ độc tài toàn trị đi tìm
nhận sự hợp pháp từ những đầu óc thân thiện ở tây phương.
Sau
sự sụp đổ của Sài Gòn, nhiều người miền Nam đã tin lời hứa của chế độ Hà Nội về
“chính sách khoan hồng”. Trong thời gian đầu tiên sau chiến tranh, trăm ngàn
người miền Nam bị xử tử, vu cáo cho sự phản quốc. Hai triệu người bị đưa đi
“các trại cải tạo”, như một cách nói trại cho những sự trừng phạt lao động và
thủ tiêu kẻ thù của chế độ. Những người tù này bị cưỡng bức công nhận chế độ đã
giam cầm họ và tán đồng tư tưởng đàn áp của họ.
Trong
những năm 1975 đến 1987, hai triệu người Việt đã trốn chạy (đa số là người miền
Nam). Phần đông dùng đường biển, với những chiếc thuyền hầu như không đi biển
được. Một nửa chết đuối trong các cuộc ra đi đó. Nhiều người trong số đó sống
sót, như chúng ta biết, đã đến Na Uy. Không phải tất cả đều thừa nhận diện
thuyền nhân tỵ nạn, như những người tỵ nạn chính trị từ một chế độ độc tài.
Phía thiên tả thường hiểu họ như những người tỵ nạn chính trị đáng nghi ngờ.
Chính sách khó
khăn, những nắm bắt đơn giản
Những
thuyền nhân này, đa số là người tỵ nạn miền Nam, không thể đánh dấu quan điểm
chính trị của họ tại một đài tưởng niệm về sự bi thương của chính họ sao? Họ là
ai, họ từ đâu đến? Tại sao họ đến? Những thuyền nhân này đã không đến do bởi
một thiên tai.
Khó
mà định hướng trong điểm cắt giữa văn hóa lưu niệm, chính trị và lịch sử. Dễ đi
sai. Có thể lấy một thí dụ là khi Jens Stoltenberg đọc diễn văn tại bữa tiệc
khoản đãi, trong chuyến viếng thăm của nhà độc tài Việt Nam Nguyễn Minh Triết
năm 2009. Stoltenberg đã kể về sự thức tỉnh chính trị của mình: ”Việc làm chính
trị đầu tiên của tôi là trong một vòng nghiên cứu về Việt Nam ở nhóm MTGPMN tại
Majorstua Ruseløkka. Tôi cũng đã tham dự trong những nhóm kịch nghệ và đã hát
những bài hát chống chiến tranh tại Việt Nam. Tôi đã không biết nhiều rằng gần
bốn mươi năm sau, tôi là chủ nhà tiếp chủ tịch của Việt Nam.”
Ngoài
ra chúng ta cũng biết đến từ những tranh cãi quanh Thổ Nhĩ Kỳ và sự tàn sát
người Armenia. Hay Trung Quốc và giải hòa bình cho Lưu Hiểu Ba: Có chính trị và
quyền lợi kinh tế trong văn hóa lưu niệm. Cả Việt Nam, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ
có quyền tác động đến những người quyết định nhằm thỏa hiệp với người công
chính qua việc đe dọa bằng kinh tế và những chiến lược phức tạp.
Những
thuyền nhân này đang ở mức độ chính trị cao. Sẽ là kỳ lạ nếu như người ta làm
vô hại và giãm đi một thảm kịch vốn trỗi dậy theo mốc đạo đức của chiến tranh
lạnh, với động lực đại diện khắp mọi chiều hướng. Toà đại sứ Việt Nam là một
phần trong trong việc này và họ là đại diện cho những kẻ bạo hành.
BTHHN
và hội đồng thành phố tại Oslo đáng tuyên dương trong việc dựng tượng đài lưu
niệm quan trọng này. Đồng thời họ nên hủy bỏ tất cả mọi sự hạn chế liên quan
đến tượng đài. Hơn nữa, bãi biển này dù sao cũng là một phần của công cộng,
theo luật về bãi biển. Đây nên là một chuyện đơn giản đối với BTHHN, là cho cơ
hội để tổ chức những buổi tưởng niệm: Không ai có thể chạy trốn khỏi chính trị.
Tác
giả: Bård Larsen , nhà sử học tại
Vicita ( Nauy)
Bản
tiếng Việt: Gò Công
Được
đăng trên báo VG ngày 26 tháng tư 2013.
No comments:
Post a Comment