Ngô Nhân
Dụng
29-4-2013
Năm ngoái nước Miến Điện (Myanmar) bắt đầu tiến
trình dân chủ hóa; sau khi chính quyền quân phiệt mời bà Aung San Suu Kyi và
đảng Liên minh Dân tộc Dân chủ do bà lãnh đạo tham dự cuộc bỏ phiếu, dù chỉ bầu
có một phần vào Quốc hội. Hiện tượng này cũng giống như cuộc bầu cử năm 1989
tại Ba Lan, trong đó Công đoàn Đoàn Kết (Solidarnosc) lần đầu tiên tham dự cuộc
bầu cử, chỉ bầu 35% Quốc hội (Sejm). Cả hai lần, các nhóm đối lập với chính
quyền đều thắng lớn. Năm đó, Ba Lan cũng sống trong tình trạng “thiết quân
luật.” Dưới quyền một “Hội đồng Cứu quốc,” hầu hết các bộ trưởng, các chủ tịch
địa phương, và phần lớn chức quản đốc các doanh nghiệp nhà nước đều do quân
nhân nắm giữ. Các cuộc tranh cử trên diễn ra mặc dù cả đảng bà Suu Kyi và công
đoàn của ông Walesa đều chưa được công nhận là hợp pháp. Cả hai cuộc bỏ phiếu
trên đều chỉ diễn ra sau khi những người đang cầm quyền tại hai quốc gia đã gặp
gỡ, thảo luận với những người đối lập; và tại mỗi nước, chính quyền cũng như
bên đối lập đều tin tưởng vào thiện chí của nhau trước khi bắt tay tiến hành
dân chủ hóa.
Miến
Điện cũng giống Tây Ban Nha
Tiến trình dân chủ hóa tại hai nước trên được các
nhà nghiên cứu chính trị học gọi là “reforma pactada – ruptura pactada,”
có nghĩa là “thỏa hiệp để xóa bỏ và để cải tổ.” Danh hiệu này quen viết bằng
chữ Tây Ban Nha, bởi vì đã được áp dụng lần đầu tại nước này. Có lẽ việc thay
đổi chế độ ở Miến Điện giống trường hợp tương tự ở Tây Ban Nha năm 1976, nhiều
hơn là giống Ba Lan năm 1989. Bởi vì Ba Lan bắt đầu dân chủ hóa do các cuộc
đình công làm áp lực của Công đoàn Solidarnosc, được dân cả nước ủng hộ. Năm
2012, Liên minh Dân tộc Dân chủ ở Miến Điện chưa tạo được một thế đối lập rộng
rãi như vậy; chính quyền quân phiệt Miến không bị thách thức mạnh mẽ như đòi
thay đổi ngay như ở Ba Lan. Có một điểm tương đồng là tại cả hai nước người dân
đều lo ngại trước thế lực của nước ngoài, Liên Xô vẫn đè nặng trên vùng Đông Âu
và Trung Quốc có thể thao túng chính quyền Miến Điện.
Điểm tương đồng đáng kể nhất là tại Tây Ban Nha cũng
như ở Miến Điện, việc khởi động tiến trình dân chủ hóa đều do ý những người
đang nắm quyền xướng xuất. Họ không bị một áp lực nào từ quần chúng, như Tướng
Jaruzelski tại Ba Lan. Chính quyền Tây Ban Nha đang đứng vững, dân chúng hài
lòng về các tiến bộ kinh tế; Tây Ban Nha cũng không trải qua những cuộc thua
trận nhục nhã, như khi cuộc đảo chính để bắt đầu dân chủ hóa diễn ra ở Bồ Đào
Nha vào năm 1974, sau khi nước này thất bại trong cuộc chiến giữ thuộc địa tại
Angola, Mozambique và Guinea. Tây Ban Nha không bị một quốc gia nào nhòm ngó,
như những hành động di dân và khai thác tài nguyên mà Trung Quốc đã thi hành
đối với Miến Điện. Nếu dân Tây Ban Nha có bất mãn, thì lý do chính là họ thấy
quốc gia mình còn quá lạc hậu so với các nước cùng ở phía Tây châu Âu.
Tây Ban Nha còn khác Miến Điện một điều nữa, là tình
trạng phe dân chủ chưa được kết tụ lại. Khi bắt đầu thực hiện dân chủ hóa, Thủ
tướng Aldofo Suárez không thấy một lãnh tụ đối lập nào có vai trò tiêu biểu như
bà Suu Kyi tại Miến. Nhiều đảng phái đã hoạt động còn đang bị cấm, nhiều lãnh
tụ chính trị bị cầm tù nhưng họ không đồng ý với nhau. Đảng Cộng sản vẫn còn
theo đường lối Nga Xô không thể hợp tác với đảng Xã hội; lại càng không thể nói
chuyện với các nhóm dân chủ khác. Trong số các đảng này không có ai nổi bật lên
để có thể coi là đại diện phe dân chủ. Vì thế, ông Suárez không thể mời một nhân
vật hay riêng một đảng nào đứng ra thảo luận với mình về một “reforma
pactada – ruptura pactada,” để bắt đầu tiến trình dân chủ hóa. Muốn tìm ra
người đối thoại, Suárez thấy chỉ có một cách danh chính ngôn thuận, là tổ chức
bầu cử cho dân chúng chọn người đối thoại với mình! Hai lần lên ti vi sau khi
nhậm chức vào giữa ăm 1976, ông đề nghị với toàn dân cùng bắt đầu dân chủ hóa,
và hứa hẹn sẽ tổ chức một cuộc bầu cử Quốc hội trong vòng một năm. Ông cam kết
mọi người sẽ tự do bỏ phiếu kín, ai cũng được tranh cử, được thông tin đầy đủ
về các ứng cử viên cho dân chúng biết!
Công
đóng góp của Aldofo Suárez rất đáng kể; vì không có gì
thúc bách chính quyền Tây Ban Nha phải bắt đầu dân chủ hóa ngay. Tướng Franco
chết vào cuối năm 1975, sau khi đưa vua Juan Carlos lên ngôi, tái lập chế độ
quân chủ lập hiến. Kinh tế Tây Ban Nha lúc đó đã phát triển đều, trong những
năm từ 1961 đến 1970 đạt tỷ lệ tăng trưởng 7,3%, tốc độ nhanh nhất ở Châu Âu.
Dân chúng cũng không mấy người quan tâm đến việc cải tổ chính trị, mà quân đội
thì chắc chắn không muốn thay đổi; vì chế độ của Tướng Franco dựa trên quân
đội, hậu quả của cuộc nội chiến thời 1930. Nhưng Suárez nhấn mạnh vẫn phải tổ
chức bầu cử tự do, vì sau 40 năm “xã hội Tây Ban Nha đã thay đổi”.
Công việc của Suárez khó khăn hơn ông Thein Sein,
Tổng thống Miến Điện rất nhiều. Suárez phải vận động ngay trong nội bộ đảng cầm
quyền để họ ủng hộ chương trình cải tổ. Trước hết Suárez phải thuyết phục Quốc
hội (Cortes) biểu quyết Luật Cải tổ Chính trị, mà đại đa số dân biểu đều
thuộc một đảng, Movimiento Nacional. Khó khăn, bởi vì các đại biểu sẽ
phải thông qua một đạo luật mà họ biết trước hậu quả là những địa vị họ được
đang hưởng sẽ bị mất. Nhưng đạo luật Cải tổ Chính trị đã được thông qua (425
thuận, 59 chống), vì chính các đại biểu Quốc hội cũng biết “xã hội đã thay
đổi”.
Việc thông qua đạo luật Cải tổ Chính trị cốt cho dân
chúng và các người đối lập thấy rằng những người cầm quyền thực tâm muốn thay
đổi. Để bảo đảm không ai có thể bị kéo thụt lùi quá trình dân chủ hóa, Suárez
còn đưa ra đạo luật trưng cầu dân ý vào cuối năm 1976. Có 77% các cử tri hợp lệ
đi bỏ phiếu và 94% đồng ý về đạo luật mới này – là những tỷ lệ rất cao.
Một tuần lễ sau đó, Suárez gặp gỡ những lãnh tụ đối
lập, dù các đảng phái còn chưa được hợp thức hóa. Ông mời họ cộng tác tham dự
cuộc bầu cử; kể cả lãnh tụ đảng Cộng sản Carillo, sau khi ông này mới được thả
ra khỏi tù. Hành động can đảm nhất của Suárez là, vào tháng Tư năm 1977, ông đã
chính thức chấp thuận đảng Cộng sản được hoạt động, sau khi họ bị đặt ra ngoài
vòng pháp luật hơn 40 năm. Cuộc nội chiến vẫn còn ám ảnh trong ký ức mọi người
dân, nhất là trong quân đội. Các tướng lãnh phản đối mạnh mẽ. Khi Bộ trưởng Hải
quân từ chức, không một vị tướng nào chịu lên thay, phải mời một đô đốc hồi hưu
ra làm việc. Suárez đã biện hộ cho quyết định của mình; bày tỏ quyết tâm tôn
trọng các quy tắc dân chủ: “Tôi không
theo chủ nghĩa cộng sản, tôi còn chống lại chủ nghĩa này hoàn toàn. Nhưng tôi
là một người dân chủ, một người dân chủ thành khẩn. Cho nên tôi tin rằng nhân
dân chúng ta đã đủ trưởng thành để sống trong một xã hội nhiều đảng phái.
…Trong cuộc sống chung với nhau, một trong số những quyền và bổn phận của chúng
ta là chấp nhận ngay cả người đối kháng với mình (adversario). Nếu cần phản đối ai thì phải thực hiện điều đó qua
cuộc cạnh tranh, theo cung cách văn minh”. Tháng Sáu năm 1977, cuộc bầu
cử Quốc hội tiến hành, mở rộng cho tất cả các đảng. Ngay cả một đảng Tân phát
xít (Fuerza Nueva) cũng được chính thức tranh cử và có một người đắc cử, dù
đảng này chính thức chủ trương bác bỏ thể chế dân chủ! Quốc hội được bầu lên đã
thảo luận và thông qua một bản Hiến pháp mới; bản Hiến pháp được đưa ra trưng
cầu dân ý vào cuối năm 1978 để chính thức ban hành.
Nước Tây Ban Nha đã đi những bước rất nhanh trong
tiến trình dân chủ hóa. Và tiến đến trình độ vững chắc; đã được cả xã hội chấp
nhận và không ai muốn quay ngược lại tiến trình. Đến năm 1982 khi ông Filipe
González, đảng Xã hội, lên làm Thủ tướng thì coi như chế độ dân chủ đã thật sự
vững vàng. Một viên đại tá đứng đầu cuộc đảo chính hụt năm 1981 đang bị giam,
nhưng tòa án đã phán quyết cho ông ta vẫn được điều động cuộc vận động tranh cử
của đảng của ông là Solidaridad Espanola, làm việc ngay từ trong nhà tù! Quy
tắc dân chủ đã được tôn trọng, mà người dân không thiệt thòi gì cả. Đến năm
1985, có 76% dân chúng Tây Ban Nha nói họ hãnh diện về cuộc chuyển hóa từ chế
độ độc tài sang dân chủ.
Năm 1993, 79% dân chúng đồng ý rằng “Dân chủ là thể chế tốt nhất cho nước ta”.
Chúng ta không thể đoán trước tiến trình dân chủ hóa
ở Miến Điện có thể đi nhanh, với những bước vững chắc như ở Tây Ban Nha hay
không. Bởi vì dân chủ hóa là một quá trình phức tạp. Không phải cứ xóa bỏ một
chế độ độc tài xong là một xã hội bắt đầu trở thành dân chủ.
Nới
lỏng tự do chưa phải dân chủ hóa
Một ngộ nhận thông thường là người ta không phân
biệt hai thứ trông từ ngoài thấy giống nhau: Nới lỏng tự do không có nghĩa đã
là dân chủ hóa; mặc dù chúng ta biết muốn dân chủ hóa thì ngay bước đầu phải
nới lỏng tự do.
Tại nhiều nước độc tài, chính quyền có thể ban bố
một số quyền tự do cho dân chúng được hưởng, nhưng không chắc từ đó sẽ tiến tới
dân chủ hóa. Thí dụ, người ta có thể giảm bớt (hoặc bãi bỏ) việc kiểm duyệt các
phương tiện truyền thông đại chúng như báo, đài, và internet, một hành động mà chính
quyền Miến Điện đã làm. Chính quyền Miến Điện đã cho phép cả những người làm
báo từ nước ngoài được trở về xuất bản báo ở trong nước. Họ cũng đã trả tự do
cho nhiều tù nhân chính trị; đã cho phép dân được tập họp tự do hơn trong các
hội đoàn, đảng phái; tóm lại là chấp nhận trong xã hội phải có các ý kiến và tổ
chức đối lập. Tất cả các hành động trên có thể gọi là “nới lỏng tự do”
(liberalization).
Nới
lỏng tự do rất đáng hoan nghênh, nhưng chưa đủ gọi là dân chủ hóa
(democratization). Vì dân chủ hóa là một tiến trình chính trị với những đặc
tính cụ thể và rõ ràng, không thể thiếu được.
Trước hết, dân chủ hóa nghĩa là người dân có khả
năng thay đổi những người đang nắm quyền hành. Cụ thể, là phải cho mọi người
được tham dự vào những cuộc bầu cử tự do; người dân được lựa chọn, ai thắng
phiếu sẽ lên cầm quyền; và luật bầu cử không có các hàng rào chính trị ngăn cản
những người ứng cử. Dân chủ hóa chỉ thành tựu khi nào đại đa số dân chúng và
những người hoạt động chính trị thỏa thuận được với nhau về những thủ tục, thể
thức để bầu cử những người nắm quyền; khi các chính phủ là do chính người dân
bầu lên; khi chính quyền đó có thể đưa ra và thực hiện các chính sách mà không
bị một thực thể nào khác chi phối, dù là một đảng chính trị, là quân đội hay
một tổ chức nào khác. Quan trọng nhất là trong guồng máy điều hành quốc gia,
những người nắm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tự họ có thể hành động mà
không bị chi phối bởi các quyền kia; lúc đó mới có thể coi việc dân chủ hóa đã
thành tựu.
Năm 1985 ông Mikhail Gorbachev và Bộ Chính trị đảng
Cộng sản Liên Xô đã ban bố các chính sách glasnost và perestroika, dù họ không
bị một áp lực bên ngoài nào thúc đẩy; nhưng chủ ý của họ chỉ là nới lỏng các
quyền tự do trong xã hội xô viết, chứ không có ý định tiến tới, và chắc chắn
không có kế hoạch tiến tới dân chủ hóa. Điều này phải chờ đến năm 1990.
Vào năm 1976 Tây Ban Nha thực sự bắt đầu dân chủ hóa
ngay, điều này không thể phủ nhận.
Miến Điện cũng bắt đầu dân chủ hóa từ năm ngoái,
song song với việc nới lỏng tự do. Vì giới quân nhân ở Miến Điện đã chấp nhận
cho những người đối lập được tranh cử, cho dân được bỏ phiếu tự do, ít nhất đã
được một lần rồi. Nhưng tại Miến Điện chúng ta còn phải chờ coi bản Hiến pháp
độc tài có được tu chính hay không, bà Aung San Suu Kyi có được tranh cử Tổng
thống hay không. Vì theo Hiến pháp Miến Điện hiện nay thì một người lấy vợ hay
chồng ngoại quốc, con có quốc tịch nước khác sẽ không được phép ứng cử Tổng
thống. Phải chờ đến cuộc bỏ phiếu năm 2015 mới biết tiến trình dân chủ hóa tại
Miến Điện sẽ đi được thêm bước nào nữa.
Miến Điện và Tây Ban Nha đều đối diện với một vấn để
giống nhau, là có các sắc dân thiểu số rất đông, tập trung ở những vùng riêng,
thường xung đột với chính quyền của khối đa số, và có nhiều người chủ trương
giành quyền tự lập hoặc ly khai. Nếu Miến Điện vượt qua được thử thách đó bằng
cách sử dụng các “khí cụ” của thể chế dân chủ, như Tây Ban Nha đã làm được, thì
mới có thể coi là tiến trình dân chủ hóa hoàn tất.
Từ việc cho phép người dân bầu cử tự do còn phải đi
thêm nhiều bước nữa mới có thể coi là hoàn tất công việc dân chủ hóa. Nhưng sau
khi đã hoàn tất rồi, cũng phải thêm nhiều thời gian nữa mới có thể nói là chế
độ dân chủ đã vững vàng. Chúng ta cũng không quên rằng nhiều khi một nước thiết
lập thể chế dân chủ rồi sau đó quay ngược lại, sống dưới một chế độ độc tài,
như khi Hitler lên nắm quyền trong thể thức bầu cử, dân chủ và tự do, nhưng tự
biến thành một nhà độc tài, hậu quả rất tai hại cho dân tộc Đức. Tại Tây Ban
Nha, công việc dân chủ hóa có thể coi là hoàn tất khi một Quốc hội, do dân tự
do bầu lên, ban hành bản Hiến pháp mới năm 1976. Nhưng phải đến năm 1982, sau
khi có một cuộc đảo chính hụt, đảng Xã hội thắng cử và lên cầm quyền thay cho
đảng khác, mới coi như thể chế dân chủ tại Tây Ban Nha đã vững vàng, năm năm
sau khi bắt đầu. Sau đó, không còn ai muốn nói tới việc đi ngược lại tiến trình
dân chủ nữa. Tại nhiều nước khác ở Âu châu như Rumania, Bulgaria, hay ở Nam Mỹ
như Brazil, Chile, Argentina, công cuộc dân chủ hóa đã đòi hỏi thời gian dài
hơn nữa.
Khi
nào thì dân chủ hóa xong?
Khi nào thì một tiến trình dân chủ hóa có thể coi là
hoàn tất? Nói theo Giuseppe di Palma, tiến trình này hoàn tất khi nào mọi người
mặc nhiên đồng ý rằng thể chế dân chủ là “cuộc chơi duy nhất đáng theo đuổi”
(the only game in town), như ông trình bày trong cuốn sách về Chuyển hóa sang
Chế độ Dân chủ”, (To Craft Democracies: An Essay on Democratic Transition,
Cambridge University Press, 1991).
Dân chủ hóa thành công khi đã thành “luật chơi duy
nhất” được mọi người chấp nhận, không ai muốn theo “lối chơi khác” trong cuộc
cạnh tranh chính trị.
Chúng ta cần xác định với nhau rằng Dân chủ không phải là một
“chủ nghĩa” mà cũng không nên coi là một “lý tưởng.” Nó bao gồm những “luật chơi,”
những thủ tục, thể thức do luật định, để người dân tự do lựa chọn họ muốn đưa
ai lên nắm chính quyền. Dân Chủ lo giải quyết vấn đề hình thức chứ không phải
nội dung của cuộc sống chung trong xã hội. Nội dung của chế độ, sẽ thiên về
công bằng xã hội hay ngả sang đề cao tự do; hoặc pha trộn hai khuynh hướng đó
theo tỷ lệ nào, các “công thức” pha chế này phải do các đại biểu của dân quyết
định, theo đúng các thủ tục dân chủ. Họ sẽ thảo luận với nhau trong thời gian
thành lập thể chế dân chủ; rồi sau đó, nếu muốn, người ta sẽ còn thay đổi các
công thức cũ để tạo ra những cách pha chế mới. Thể chế dân chủ cho phép một xã
hội thay đổi, và chắc sẽ còn thay đổi mãi, vì chúng ta biết cuộc sống loài
người luôn luôn biến chuyển. Nhưng các quyết định trong quá trình thay đổi phải
được thực hiện trong vòng các thể thức dân chủ. Khi nào mọi người, hay đại đa số mọi người, đồng ý với
nhau là chỉ có luật chơi dân chủ là tiện nhất, thích hợp và đáng theo nhất, khi
đó có thể coi là tiến trình dân chủ hóa đã thành tựu.
Phải cẩn thận nhắc nhở lẫn nhau như vậy, vì nhiều
người có thể hiểu lầm rằng cứ tổ chức bầu cử tự do xong là đã dân chủ hóa. Bầu
cử tự do là điều kiện tất yếu, nhưng không đủ. Thí dụ như ở Chile. Tại Chile,
Tướng Augusto Pinochet lên cầm quyền sau một cuộc đảo chính, bản Hiến pháp năm
1980 của ông được chấp thuận trong một cuộc trưng cầu dân ý; trong đó hứa hẹn
sau tám năm; nếu được dân đồng ý, mới kéo dài thêm tám năm nữa. Năm 1988, ông
Pinochet vẫn được Hội đồng Quân đội đưa ra làm ứng cử viên Tổng thống duy nhất,
nhưng ông chỉ được 43% số phiếu; và có 55% dân chúng từ chối.
Tuy thể chế dân chủ đã thành hình tại Chile từ năm
1989, nhưng sau đó hơn mười năm vẫn chưa thể coi là tiến trình dân chủ hóa đã
hoàn tất; vì những ràng buộc của quá khứ. Mặc dù bị thua phiếu, nhưng Tướng
Pinochet đã làm đủ mọi cách để bảo vệ quyền hành. Ông mời các đảng đối lập thảo
luận về tu chính hiến pháp, hai bên đã đồng ý thay đổi 54 điều, nhưng còn để
lại nhiều điều di lụy về sau. Bản Hiến pháp tu chính được trưng cầu dân ý vào
tháng Bảy năm 1989, hơn 91% dân chấp thuận, đến cuối năm thì bầu cử Tổng thống
mới. Ông Patricio Aylwin, đại diện cho 17 chính đảng trong
liên minh Concertación đã đắc cử
với 55% số phiếu. Ông cầm quyền bốn năm, liên minh Concertación gồm
cả đảng Dân chủ Thiên chúa giáo và đảng Xã hội tiếp tục nắm quyền; năm 2009 mới
có một vị Tổng thống thuộc đảng khác.
Ông Pinochet trao quyền cho vị Tổng thống mới vào
năm 1990, nhưng vẫn giữ chức tổng tư lệnh quân đội trong một thời gian dài, mà
chính phủ mới không thể thay đổi vì các điều được ghi trong hiến pháp. Các chức
tư lệnh hải quân, không quân và tư lệnh cảnh sát cũng vậy, cho đến năm 1998 mới
hết hạn. Ngân sách quân đội cũng được đặt nằm ngoài thẩm quyền của vị Tổng
thống dân cử, mà chỉ do vị tư lệnh quyết định. Ông Pinochet còn ảnh hưởng trên
Tòa án Bảo hiến, với bảy thẩm phán được ông phong nhậm từ trước, và theo luật
họ chỉ về hưu khi đến tuổi 75! Với tư cách “nghị sĩ suốt đời” trong Thượng
viện, một địa vị dành cho các cựu Tổng thống, ông được miễn tố, mặc dù rất
nhiều người dân muốn đưa ông ra xét xử về các tội về nhân quyền. Phải đến năm
2000, ông mới bị tước mất quyền miễn tố, và Bộ Tư pháp chuẩn bị đưa ông ra tòa.
Nhưng sau đó, ông kiện lên Tối cao Pháp viện, và việc truy cứu được bãi bỏ vì tòa
án coi là ông bệnh nặng; phần lớn các vị thẩm phán tòa tối cao đều do ông bổ
nhiệm từ trước. Năm 2005 ông mới tự bỏ vai trò nghị sĩ suốt đời; một năm trước
khi ông chết.
Nhìn vào trường hợp Chile thì chúng ta thấy quá
trình dân chủ hóa không thể hoàn tất dễ dàng, khi những người cầm quyền trong
chế độ cũ vẫn còn giữ được các đặc quyền. Tại hai nước Bulgaria à Romania sau
năm 1989 cũng vậy. Chính những người đang cầm quyền đã quyết định thay đổi chế
độ tại hai nước này; sau khi họ lật đổ người cầm đầu đảng ở Bulgaria, và hạ sát
lãnh tụ ở Romania. Nhưng nhờ đóng vai chủ động khởi xướng việc thay đổi, họ có
thể điều khiển tất cả quá trình dân chủ hóa, trì hoãn việc cải tổ kinh tế, bảo
vệ được các đặc quyền của họ và đồng đảng. Vì vậy, tiến trình dân chủ hóa tại
hai nước này tiến rất chậm.
Tại Bulgaria, ngay cả khi một liên minh các đảng dân
chủ đối lập (Lực lượng Dân Chủ Thống nhất, UDF) thắng cử và lên cầm quyền năm
1992, chính họ cũng không hành sử theo đúng tinh thần dân chủ, vì vẫn muốn
“trừng phạt” các nhân vật của “chế độ cũ” bằng những biện pháp không theo đúng
quy tắc tôn trọng nhân quyền và thủ tục pháp lý. Chương trình cải tổ kinh tế bị
trì hoãn cho đến năm 1997 mới được tiến hành; năm 2002 Hội đồng Châu Âu mới
chính thức coi Bulgaria là đang theo kinh tế thị trường. Một hậu quả là nền
kinh tế của Bulgaria, cũng như Romania, đều tiến rất chậm so với các nước chung
quanh. Năm 2009, Bulgaria là nước nghèo nhất trong cộng đồng Âu châu (EU); ông
Ognian Shentov, một nhà nghiên cứu chính trị nhận xét: Cảm tưởng chung của
người dân là buồn chán, vì thấy cuộc thay đổi vẫn chưa hoàn tất!”.
Chile may mắn hơn hai nước Bulgaria à Romania ở vài
điểm, nhờ di sản của quá khứ thuận lợi hơn cho việc chuyển hóa. Tuy tiến trình
dân chủ hóa ở Chile tiến chậm, nhưng tại nước này đã có những yếu tố giúp cho
xã hội vẫn tiến bộ mặc dù trên mặt nổi thì thế lực của chế độ cũ vẫn cố duy trì
các đặc quyền của họ. Nhìn vào nước Chile, từ trước thời Pinochet đảo chính
(năm 1973) người dân đã tạo được tập quán sống theo lối dân chủ. Giới kinh
doanh được tự do, các đảng phái chính trị đã thành hình, và một xã hội công dân
rất năng động được phát triển với các hiệp hội đoàn thể tự nguyện. Với ba thành
phần nằm trong phần nước ngầm ở bên dưới đó, việc thay đổi thể chế chính trị ở
mặt nổi chỉ tạo thêm cơ hội cho quốc gia phát triển nhanh hơn và hòa hợp hơn.
Ngược lại, hai nước Bulgaria à Romania không có những nền tảng của một xã hội
kinh tế (các doanh nghiệp tư), một xã hội chính trị (các đảng phái) mà cũng
không có được một xã hội công dân đầy đủ để thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa
thành công. Chỉ sau khi thể chế đã thay đổi, các doanh nghiệp tư và các đảng
chính trị ra đời, người dân bắt đầu ý thức quyền công dân của mình bằng việc
thành lập các tổ chức, phong trào tự nguyện, khi đó quá trình dân chủ hóa mới
được thúc đẩy tiến nhanh hơn. Nhưng cuối cùng thì, sau khi được tự do, người
dân nước nào cũng biết phải làm gì để sống xứng đáng trong một ch dân chủ. Vì vậy, bước đầu tiên để dân chủ hóa là phải nới lỏng tự
do, trả lại các quyền công dân căn bản cho mọi người.
N.N.D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment