Quốc
gia tầm trung với định hướng ngoại giao chuyên biệt: Một số gợi ý cho Việt Nam
đến năm 2030
Vũ
Lê Thái Hoàng* – Đỗ Thị Thủy **
16/06/2021
http://nghiencuuquocte.org/2021/06/16/quoc-gia-tam-trung-voi-dinh-huong-ngoai-giao-chuyen-biet/
Tóm
tắt: Ngoại giao chuyên biệt nhiều thập niên qua đã, đang là lựa chọn và định
hướng chính sách đối ngoại quan trọng, phổ biến, phù hợp với thế và lực của các
nước tầm trung trong một môi trường chiến lược biến động nhanh chóng, phức tạp
nhưng cũng mở ra nhiều dư địa, cơ hội. Với thế và lực gia tăng ấn tượng sau 35
năm đổi mới và hội nhập quốc tế thành công cũng như với tầm nhìn, khát vọng
phát triển đến năm 2045 được Đảng ta đề ra tại Đại hội XIII (tháng 1-2021), Việt
Nam ngày càng có những đóng góp tích cực, chủ động, trách nhiệm vào hòa bình,
an ninh, phát triển và thịnh vượng chung của khu vực, thế giới. Vì lẽ đó, ngoại
giao chuyên biệt cần được xem là hướng đi, ưu tiên mới của ngoại giao Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Quốc gia tầm trung
với vị thế đặc thù trong quan hệ quốc tế
“Quốc gia tầm trung” là một khái niệm mang
tính so sánh, về cơ bản có hai cách để phân loại, định nghĩa “quốc gia tầm
trung”. Cách thứ nhất dựa trên các thước đo năng lực, sức mạnh quốc gia
(sức mạnh cứng và sức mạnh mềm), như chỉ số tổng sản phẩm quốc gia (GNP)/tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), lợi thế cạnh tranh về kinh tế, sức mạnh quân sự, diện tích
lãnh thổ, dân số và chất lượng dân số, tài nguyên thiên nhiên, sức hấp dẫn của
văn hóa và mô hình chính trị, vị trí địa – chính trị, địa – kinh tế, uy tín/ảnh
hưởng quốc tế… Cách thứ hai dựa trên kiểu hành vi/chính sách đặc thù của
quốc gia, đặc biệt là ưu tiên sử dụng phương thức ngoại giao đa phương trong
chính sách đối ngoại, thể hiện qua số lượng các tổ chức/cơ chế hợp tác quốc tế/khu
vực tham gia, mức độ đóng góp tài chính vào các cơ chế đa phương, các hoạt động
ngoại giao đa phương, như số lượng sáng kiến, hoạt động gìn giữ hòa bình của
Liên hợp quốc, hoạt động viện trợ nhân đạo quốc tế, vai trò hòa giải/trung gian
trong tranh chấp quốc tế… Trên thực tế, cách thứ hai thường được sử dụng làm cơ
sở chính cho các định nghĩa/phân loại, còn cách thứ nhất đóng vai trò bổ sung.
Do đó, năng lực, sức mạnh của quốc gia tầm trung là điều kiện cần, còn
chính sách, hành vi đặc thù của quốc gia tầm trung là điều kiện đủ để kết
hợp tạo nên một thực thể được công nhận là “quốc gia tầm trung”.
Các nước tầm trung có vị thế đặc thù trong hệ
thống quốc tế. Nhóm nước này tuy có nguồn lực hạn chế, chưa đuổi kịp/cạnh tranh
được với các nước lớn, nhất là về sức mạnh kinh tế, công nghệ, quốc phòng, song
có lợi thế tương đồng với các quốc gia tầm trung khác và vượt trội so với các
nước nhỏ, trình độ phát triển thấp. Vị thế đó, một mặt, có thể tạo nên
áp lực phải thích ứng, phòng vệ trong thế “tiến thoái lưỡng nan” về ứng xử phù
hợp của nước tầm trung với các bên (lớn hơn, ngang bằng, nhỏ hơn) trong một số
hoàn cảnh; mặt khác, cũng tạo nhiều dư địa, cơ hội khi có được lòng tin
lớn hơn của quốc tế về vai trò cầu nối, trung gian, xúc tác một cách xây dựng,
thực tâm; tạo động lực chủ động, sáng tạo để tối ưu hóa không gian chiến lược
chật hẹp và lựa chọn chính sách hạn chế, giúp duy trì khả năng độc lập, tự chủ,
linh hoạt và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các nước, trong đó có việc
mở rộng, tăng cường mạng lưới quan hệ giữa các nước tầm trung với nhau để giảm
áp lực từ cạnh tranh chiến lược các nước lớn; phát huy vai trò, sáng kiến đóng
góp cho hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới. Dư địa,
cơ hội đó sẽ tiếp tục được mở rộng hơn khi bên cạnh các “điểm nóng” nan giải về
an ninh truyền thống, các vấn đề toàn cầu (an ninh phi truyền thống, an ninh
con người) nổi lên ngày càng nhiều, càng phức tạp, tác động không loại trừ nước
nào và cũng không một nước nào tự mình có thể giải quyết hiệu quả. Nhu cầu cần
có sự chung tay, hợp tác rộng lớn về cả nguồn lực lẫn ý tưởng, sáng kiến dường
như là vô tận, kéo theo xu hướng phát triển khó đảo ngược của xu thế đa phương
và dân chủ hóa quan hệ quốc tế. Quốc gia tầm trung có vai trò không thể thiếu
được trong xu hướng đó.
Ngoại giao chuyên biệt (niche diplomacy) là lựa
chọn và định hướng chính sách quan trọng, phù hợp với thế và lực của các nước tầm
trung trong môi trường chiến lược biến động nhanh, phức tạp, khó lường. Triển
khai ngoại giao chuyên biệt sẽ tạo nên một bản sắc quốc gia riêng biệt, phục vụ
hiệu quả cho lợi ích an ninh, phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước tầm
trung. Từ góc độ đối ngoại, đó là cách tiếp cận chủ động, tích cực nhưng chọn lọc,
linh hoạt, thực tế (không dàn trải, có trọng tâm, trọng điểm, ít bị nước lớn
chi phối, có khả năng tập hợp lực lượng, nhất là từ các nước nhỏ và các nước tầm
trung khác), hợp thế mạnh, hợp lợi ích (tìm ra những vấn đề lợi thế có thể phát
huy, đóng góp, thường thiên về an ninh phi truyền thống), mang tính liên ngành,
toàn chính phủ/cộng đồng, thông qua đề xuất, dẫn dắt sáng kiến/ý tưởng, xúc
tác, kết nối, điều phối với các đối tác chính phủ và phi chính phủ, cả kênh
song phương và đa phương, trong đó ngoại giao đóng vai trò tích cực, chủ động,
thậm chí tiên phong, nòng cốt.
Ngoại giao chuyên
biệt: Sự lựa chọn phù hợp với quốc gia tầm trung
Xuất phát từ khái niệm “thị trường ngách”
(niche market) trong kinh doanh, “ngoại giao chuyên biệt” là một khái niệm do
các học giả người Ô-xtrây-li-a và Ca-na-đa phát triển và được ứng dụng rộng rãi
ở nhiều nước. Thuật ngữ này lần đầu tiên được Ngoại trưởng Ô-xtrây-li-a Ga-rết
E-van (Gareth Evans) và học giả Bru-xơ Gran (Bruce Grant) đưa ra vào năm 1991
trong cuốn sách bàn về chính sách đối ngoại của Ô-xtrây-li-a sau Chiến tranh lạnh.
Theo Ngoại trưởng Ô-xtrây-li-a Ga-rết E-van, ngoại giao chuyên biệt đồng nghĩa
với chuyên môn hóa (specialization). Ông định nghĩa ngoại giao chuyên biệt là
“tập trung nguồn lực trong những lĩnh vực cụ thể để có thể thu được kết quả tốt
nhất đáng có, hơn là tìm cách phủ bóng lên mọi lĩnh vực”(1). Theo
đó, ngoại giao chuyên biệt tập trung vào khả năng của một nước nhằm xác định và
lấp những khoảng trống hẹp (niche spaces) thông qua phương thức, kỹ năng ngoại
giao. Cụ thể là, các nước thực thi ngoại giao chuyên biệt lựa chọn một hoặc một
vài vấn đề, tổ chức hay lĩnh vực cụ thể để chuyên môn hóa và định hướng chúng
thành nền tảng quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình.
Ngoại giao chuyên biệt trên thực tế được triển
khai hiệu quả nhất bởi các quốc gia tầm trung – những nước có đủ năng lực và vị
thế để đóng vai trò nổi bật trên trường quốc tế, song lại không đủ mạnh để áp đặt
các lập trường và giải pháp của họ(2). Do nguồn lực có hạn so với
các nước lớn nhưng vẫn đáng kể so với các nước nhỏ, các nước tầm trung có thể
thể hiện vai trò trong chính trị quốc tế bằng cách tập trung vào các vấn đề quốc
tế mới nổi và thiết thực. Do vậy, sự tích cực của các nước tầm trung được giải
thích không chỉ như là cách thức nhằm vượt qua những hạn chế về sức mạnh vật chất
so với các nước khác mà bằng cách phát triển những chiến lược can dự ngoại
giao, bao gồm việc xác định các “lĩnh vực chuyên biệt” để hành động và vận dụng
các nguồn lực sức mạnh mềm như khả năng tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn.
Đặc điểm trung tâm trong nền ngoại giao
của các nước tầm trung là sự can dự với quản trị toàn cầu/khu vực trong các
lĩnh vực chuyên biệt mà họ có thể dẫn dắt và định hình các chương trình nghị sự
cũng như đóng góp vào sự phát triển các năng lực trong quản trị toàn cầu, điển
hình là trong các cơ chế đa phương.
Thứ hai, các nước tầm trung tận
dụng uy tín của họ như là những “công dân tốt toàn cầu”. Nước tầm trung có một
vai trò đặc biệt trong việc dẫn dắt ý tưởng và kỹ thuật trong các lĩnh vực
chuyên biệt, nơi có thể thể hiện một mô thức nghệ thuật quản trị đặc thù nhấn mạnh
vào xây dựng liên kết và hợp tác. Các nước tầm trung cũng thích nghi trên cơ sở
chọn lọc vai trò xúc tác (catalyst) thông qua các sáng kiến ngoại giao, điều phối,
dẫn dắt (facilitator) thông qua xây dựng các chương trình nghị sự, xây dựng đồng
thuận, xây dựng lòng tin, quản lý (manager) thông qua hỗ trợ xây dựng thể chế
đa phương(3).
Thứ ba, kể từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai đến nay, các nước tầm trung đã đạt được sự tự chủ tương đối
trong việc can dự vào ngoại giao chuyên biệt ở cấp độ toàn cầu, đóng vai trò dẫn
dắt, điều phối trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống (và an ninh con người) vốn
là những vấn đề chính trị tầm thấp phi quân sự (low politics), như biến đổi khí
hậu, kinh tế, nhân khẩu so với những vấn đề chính trị tầm cao (high politics),
như kiểm soát vũ khí và cân bằng chiến lược.
Thứ tư, kết nối mạng lưới (networking)
là một khâu quan trọng trong thực thi ngoại giao chuyên biệt. Các nước tầm
trung nỗ lực xây dựng thương hiệu quốc gia thông qua các hoạt động ngoại giao
công chúng ở tầm quốc tế và khu vực, vận động trực tiếp của các quan chức và
các nhà ngoại giao… trong việc thu hút sự phối hợp và ủng hộ của cộng đồng quốc
tế(4).
Thứ năm, các nước tầm trung tăng
cường khả năng định hình sáng tạo các ý tưởng chính sách và nuôi dưỡng một mạng
lưới chính sách với các tổ chức quốc tế. Ngoại giao chuyên biệt của các nước tầm
trung không cần kiến thức khoa học vĩ đại hoặc những nguồn lực lớn để xây dựng
mạng lưới. Thay vào đó, tập trung vào một vấn đề cụ thể và xây dựng một mạng lưới
quốc tế mới là điều quan trọng.
Ngoại giao chuyên
biệt: Hướng đi mới của ngoại giao Việt Nam đến năm 2030
Tại phiên khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng (ngày 26-1-2021), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng nhận định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay”(5). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu
mục tiêu cụ thể thời gian tới: 1- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp
theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; 2- Đến năm 2030, kỷ
niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao; 3- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành
nước phát triển, thu nhập cao(6). Đây là tầm nhìn và khát vọng của
Việt Nam trong những thập niên tới.
Có thể nói, sau hơn ba thập niên đổi mới và hội
nhập quốc tế, Việt Nam đã khẳng định được vị thế ngày càng cao trong quan hệ quốc
tế xét theo ba tiêu chí năng lực, chính sách và sự công nhận của quốc tế(7).
Về năng lực hay sức mạnh, Việt Nam tuy còn hạn chế nhiều mặt và phải nỗ lực rất lớn nếu so với
nhóm cường quốc và tầm trung dẫn đầu, song không thua kém, thậm chí vượt trội
so với các quốc gia khác trên một số phương diện. Đơn cử như, Việt Nam xếp thứ
68 về diện tích, xếp thứ 15 về dân số, thứ 46 về quy mô nền kinh tế, các chỉ số
phát triển kinh tế – xã hội tích cực, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Ngân
hàng Thế giới (WB) đánh giá Việt Nam đã phát triển vượt bậc từ một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới trở thành nước thu nhập trung bình thấp, với GDP
đầu người đạt khoảng 2.800 USD năm 2019, hơn 45 triệu người thoát nghèo; là một
trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và năng động nhất trong khu vực
(dao động từ 5,25% – 7,08% liên tục từ năm 2012 đến năm 2019); Chỉ số vốn con
người (HCI) xếp thứ 48/157 nước và vùng lãnh thổ và đứng thứ hai trong Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chỉ sau Xin-ga-po(8), Chỉ số Phát
triển con người (HDI) là 0,63 – thuộc nhóm cao nhất thế giới, Chỉ số năng lực cạnh
tranh toàn cầu (GCI) xếp thứ 67/141 nước và nền kinh tế. Về sức mạnh quốc
phòng(9), theo tổ chức Global Firepower, Việt Nam xếp thứ
23/137 nước và vùng lãnh thổ năm 2019(10), được đánh giá là một
trong những nước có sức mạnh quân sự hàng đầu khu vực, nhất là khu vực Đông Nam
Á.
Về chính sách, từ
tư duy, đường lối đến triển khai đối ngoại của Việt Nam trong hơn ba thập niên
qua đều thể hiện sự kết hợp biện chứng giữa nguyên tắc độc lập, tự chủ và chủ
trương đa dạng hóa, đa phương hóa, cân bằng động và linh hoạt trong quan hệ với
các đối tác; là sự phát triển tiệm tiến từ phương châm muốn là bạn, đối tác tin
cậy đến thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế đóng góp vào nỗ lực
chung giải quyết các thách thức toàn cầu, tức là trở thành “công dân tốt” của cộng
đồng quốc tế; là sự chuyển dịch từ hội nhập kinh tế sang hội nhập quốc tế sâu rộng,
toàn diện, chủ động, tích cực, gắn liền với nâng tầm đối ngoại đa phương, từ chủ
yếu chấp nhận “luật chơi”chuyển sang góp phần định hình “luật chơi” của hệ thống
quốc tế, vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn đa
phương, khu vực quan trọng. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ
Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”; Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của
Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm
2030” và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là những văn bản định hướng lớn về
chiều hướng phát triển đó. Như vậy, với Việt Nam, việc định vị vị thế quốc gia
theo hướng tự tin, chủ động, tích cực hơn trong quan hệ quốc tế, sẽ góp phần phục
vụ hiệu quả cho bảo đảm lợi ích cao nhất quốc gia - dân tộc trong bối cảnh mới. Chủ trương, đường lối, chính sách đó cũng góp
phần tạo nên bản sắc đối ngoại Việt Nam(11).
Về sự công nhận quốc tế, với đường lối đối ngoại nói trên, vị thế của Việt Nam ngày càng được
quốc tế công nhận rộng rãi. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với hầu như tất
cả các nước thành viên Liên hợp quốc (189/193) và năm 2019 được bầu làm Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021 với số phiếu
192/193 – số lượng phiếu cao kỷ lục chưa từng có trong 75 năm phát triển của
Liên hợp quốc; đã xác lập khuôn khổ quan hệ với tất cả năm nước Ủy viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tổng số 17 đối tác chiến lược, 13 đối
tác toàn diện; là thành viên của hơn 70 tổ chức/diễn đàn khu vực, toàn cầu; nền
kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu rộng vào khu vực, thế giới, có quan hệ
thương mại, đầu tư với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 15 hiệp định
thương mại tự do (FTA) với 65 nền kinh tế, là điểm đến ngày càng hấp dẫn, an
toàn, đáng tin cậy cho các nhà đầu tư, khách du lịch quốc tế. Việt Nam là một
trong số ít các nước được thế giới đánh giá là điển hình phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, thể hiện trách nhiệm và uy tín cao trong hợp tác quốc tế, khu vực.
Xét chiều hướng phát triển thế và lực tổng thể
cũng như định hướng đối ngoại của Việt Nam đến năm 2030, có thể thấy, ngoại
giao chuyên biệt cần và phải là hướng đi, ưu tiên mới của ngoại giao Việt Nam đến
năm 2030 (và xa hơn trong thế kỷ XXI), góp phần hoạch định, triển khai hiệu quả
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 và Chiến lược đối
ngoại đến năm 2030, tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc
tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.
Đề xuất ưu tiên và đầu tư nhiều hơn cho ngoại
giao chuyên biệt nên được hiểu là sự bổ trợ, nâng tầm và tăng tính hiệu quả cho
ngoại giao Việt Nam nói riêng và đối ngoại Việt Nam nói chung trong thời gian tới.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt
Nam được thiết kế và triển khai theo trục chủ thể (đối ngoại đảng, ngoại giao
nhà nước, đối ngoại quốc hội, đối ngoại nhân dân), theo các nhóm đối tác (láng
giềng, khu vực, nước lớn, bạn bè truyền thống và các đối tác khác, đối ngoại đa
phương), theo khuôn khổ (đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác chiến
lược theo lĩnh vực), theo trụ cột nội dung (ngoại giao chính trị, ngoại giao
kinh tế, ngoại giao văn hóa, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài). Việc đi
sâu vào một chủ đề/vấn đề/lĩnh vực (nhất là về phát triển) hay phương thức
chuyên biệt, cụ thể, phù hợp với thế mạnh và lợi ích của Việt Nam đã có một số
tiền lệ và bước đầu thử nghiệm, nhưng chủ yếu đặt trong tổng thể quan hệ với một
số đối tác và tại một số diễn đàn đa phương, chưa trở thành một định hướng đối
ngoại chung mang tính hệ thống, xuyên suốt, được triển khai bài bản, đồng bộ, rộng
khắp với nhiều đối tác, tại nhiều diễn đàn, tạo nên “thương hiệu quốc gia” và
hiệu ứng tổng thể phục vụ hiệu quả cho lợi ích của đất nước. Ngoại giao chuyên
biệt trước hết là sự đề cao vai trò tích cực, chủ động, tiên phong của ngành
ngoại giao trong tìm tòi cách làm mới, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm, lựa
chọn và xây dựng chiến lược dài hạn hiện thực hóa một số chủ đề, phương thức,
lĩnh vực phù hợp với lợi ích, thế mạnh quốc gia và xu thế của quốc tế, qua đó kết
hợp tối ưu hóa nguồn lực bên trong và bên ngoài, phục vụ hiệu quả nhất lợi ích
quốc gia – dân tộc, nhất là lợi ích phát triển. Theo đó, có thể xem xét hoạch định
và triển khai chiến lược về ngoại giao trung gian – hòa giải, ngoại giao công
chúng, ngoại giao số, ngoại giao công nghệ, ngoại giao năng lượng, ngoại giao
nước, ngoại giao y tế, ngoại giao bình đẳng giới…
Ngoại giao chuyên biệt như một phương thức và
công cụ sẽ mang lại nhiều lợi ích về chiến lược, an ninh, phát triển và vị thế
cho Việt Nam. Cụ thể:
Thứ
nhất, góp phần định hình, làm phong phú thêm bản sắc
đối ngoại, “thương hiệu quốc gia” của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới,
là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, không chỉ quan
tâm đến lợi ích của mình mà còn quan tâm, phối hợp, giúp đỡ các nước khác trong
điều kiện, khả năng phù hợp.
Thứ
hai, thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề phi chính
trị, ít nhạy cảm, giúp mở rộng không gian, dư địa chiến lược, qua đó tăng cường
xây dựng lòng tin, đan xen lợi ích với các đối tác, vừa duy trì được khả năng độc
lập, tự chủ, vừa đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa, phát huy vai trò, vị thế
quốc tế của đất nước. Do đó, ngoại giao chuyên biệt đòi hỏi đáp ứng hai đặc
tính cơ bản là lồng ghép chính sách (giữa đối ngoại và các lĩnh vực chuyên
ngành) và phối hợp triển khai (giữa Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện và các
bộ, ngành, doanh nghiệp, địa phương).
Thứ
ba, góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng,
hiệu quả hơn theo tinh thần ngoại giao phục vụ phát triển, phối hợp với các bộ,
ngành, địa phương chọn lựa và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực/vấn đề
phù hợp, mang tính chiến lược, dài hạn, qua đó thu hút, tranh thủ tối đa mọi
nguồn lực bên ngoài để tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới, cải cách, nâng cao
sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Thứ
tư, cụ thể hóa triển khai chủ trương đẩy mạnh,
nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt,
hòa giải tại các cơ chế đa phương có tầm quan trọng chiến lược với Việt Nam
(trong đó có ASEAN), thông qua các sáng kiến, nỗ lực hợp tác trong những vấn đề/lĩnh
vực cụ thể phù hợp với lợi ích, thế mạnh của ta và được khu vực, quốc tế quan
tâm, nhất là các thách thức an ninh phi truyền thống, các vấn đề toàn cầu; đa dạng
hóa các liên kết, hợp tác theo vấn đề/lĩnh vực cụ thể với các nước cùng lợi
ích/quan điểm (like-minded), góp phần thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, dân chủ hóa
quan hệ quốc tế, xây dựng trật tự dựa trên luật pháp quốc tế.
Thứ
năm, việc triển khai hiệu quả ngoại giao chuyên biệt
phụ thuộc nhiều vào định hướng xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại thời
gian tới(12); chú trọng nâng cao năng lực thể chế, phối hợp liên
ngành (toàn chính phủ) và phát triển nguồn nhân lực công tác đối ngoại ở trong
nước, đặc biệt là phát huy vai trò cầu nối, xúc tác, song hành của mạng lưới
các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, tăng cường đào tạo đội ngũ cán
bộ ngoại giao chuyên nghiệp, chính quy, hiện đại, được trang bị kiến thức tổng
hợp, đa ngành và các kỹ năng phù hợp.
* TS, Bộ Ngoại giao; ** TS, Học viện Ngoại giao
Bài viết được xuất bản lần đầu trên Tạp chí Cộng sản
số 967, tháng 6/2021.
(1) Gareth Evans and
Bruce Grant: Australia’s Foreign Relations in the World of the 1990s, Melbourne:
Melbourne University Press, 1991, pp. 323
(2), (3) Xem: Vũ Lê Thái Hoàng – Lê Linh Lan:
“Vai trò của ngoại giao đa phương trong chính sách đối ngoại của quốc gia tầm
trung: Trường hợp của Indonesia”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 97,
tháng 6-2014, tr. 87 - 116
(4) Henrikson, Alan K: “Niche diplomacy in the
world public arena: The global ‘corners’ of Canada and Norway”, The new
public diplomacy, Palgrave Macmillan, London, 2005, p. 71
(5) Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, https://nhandan.com.vn/chinhtri/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-636568/,
truy cập ngày 5-3-2021
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 326 – 327
(7) Xem: Lê Đình Tĩnh: “Mục tiêu cường quốc tầm
trung và viễn cảnh ngoại giao Việt Nam sau năm 2030”, Tạp chí Nghiên cứu quốc
tế, số 2 (113), tháng 6-2018, tr. 22- 53; Lê Hồng Hiệp: “Đã đến lúc Việt
Nam định vị mình là “cường quốc hạng trung””, https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/dachieu/da-den-luc-viet-nam-dinh-vi-minh-la-cuong-quoc-hang-trung-469844.html,
ngày 17-8-2018
(8) Xem: https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
(9) Xem thêm: Sách trắng Quốc phòng 2019, https://dskbd.org/2019/12/03/toan-van-sach-trang-quoc-phong-viet-nam-2019/
(10) Xem thêm: https://globalfirepower.com/countries-listings.asp,
truy cập ngày 10-5-2020
(11) Xem: Lê Đình Tĩnh: “Mục tiêu cường quốc tầm
trung và viễn cảnh ngoại giao Việt Nam sau năm 2030”, Tạp chí Nghiên cứu quốc
tế, số 2 (113), tháng 6-2018, tr. 47 – 48
(12) Xem: Phạm Bình Minh: “Hướng tới nền ngoại
giao toàn diện, hiện đại và những kỳ vọng đối với cán bộ ngoại giao tương lai”,
https://baoquocte.vn/ngoai-giao-vie-t-nam-huong-toi-nen-ngoai-giao-toan-dien-hien-dai-va-nhung-ky-vong-doi-voi-can-bo-ngoai-giao-tuong-lai-136447.html,
truy cập ngày 18-2-2021
No comments:
Post a Comment