Vì sao người Trung
Quốc vô duyên với tự do dân chủ?
Tác giả: Tiêu Kiện
Sinh (Trung Quốc)
Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
http://nghiencuuquocte.org/2021/03/16/vi-sao-nguoi-trung-quoc-vo-duyen-voi-tu-do-dan-chu/
Thập niên 1980 tôi nảy ra
ý nghĩ tái suy ngẫm một cách có hệ thống về lịch sử Trung Quốc. Hồi ấy nhiều
người vẫn còn quen dùng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp để xem xét các
vấn đề lịch sử, lồng ghép lịch sử sống động vào trong cái khuôn phép giai cấp
và đấu tranh giai cấp, tùy tiện xuyên tạc lịch sử, chia con người ra làm hai
loại lớn là “cách mạng” và “phản động” để đánh giá người ta, không tôn trọng sự
thực lịch sử. Tôi cảm thấy hiện tượng đó làm cho lịch sử bị đơn giản hóa và
dung tục hóa.
Đến nay mấy chục năm đã
trôi qua, lịch sử học của Trung Quốc đã có tiến bộ lớn. Nhưng trên nhiều vấn đề
trọng đại, sử học Trung Quốc vẫn chưa có sự thay đổi thực chất, vẫn ở trong
trạng thái tư tưởng hỗn loạn. Người nước ta không muốn triệt để suy ngẫm lại lịch
sử của mình, cho nên không thể nhận thức chính xác các thành tựu văn minh trong
lịch sử Trung Quốc, không học được các bài học kinh nghiệm thực sự hữu ích.
[Chúng ta] chưa có nhận
thức đúng đắn cái gì cần vứt bỏ, cái gì cần thừa kế và phát triển. Kết quả là
cái đáng bỏ thì không bỏ, ngược lại còn được coi là tinh hoa văn minh để thừa
kế, còn cái tinh thần văn minh nên thừa kế và phát triển thì lại bị coi là cặn
bã để vứt bỏ.
Ví dụ, Lão Tử đề xướng
chủ trương “Kính thiên thuận đạo”, “Vô vi nhĩ trị”, Nho gia [Việt Nam gọi là
Nho giáo] đề xướng thái độ khoan dung “Nhân giả ái nhân”, “Kỷ sở bất dục, vật
thi ư nhân”,[1] Mặc Tử đề xướng tư tưởng bác ái,
bình đẳng, phản chiến v.v… Những tư tưởng và chủ trương chính trị rất hay ấy
lại bị phủ định trong một thời gian dài; ngược lại, các tư tưởng bạo lực và
chuyên chế và thói giang hồ về sau xuất hiện thì lại được khẳng định và thừa kế
lâu dài. Do tinh hoa văn minh trong lịch sử Trung Quốc không được kế thừa và
phát triển nên kết quả là nền văn minh nước ta chưa đi lên con đường phát
triển lành mạnh.
Mỗi dân tộc cần nhận thức
đúng đắn lịch sử của mình. Chỉ có thế thì mới có thể tỉnh táo biết được đâu là
tinh hoa và cặn bã trong nền văn minh ấy, từ đó tìm được cho dân tộc con đường
đúng đắn để sinh tồn và phát triển. Một dân tộc không thể triệt để suy ngẫm lại
lịch sử nền văn minh của mình thì rất khó nói đó là một dân tộc có hy vọng. Rất
rõ ràng, một dân tộc không thể đối xử đúng đắn với ngay cả lịch sử nền văn minh
của mình thì sao có thể hy vọng dân tộc đó hướng tới tương lai với một chí khí
vĩ đại.
Cho tới nay, rất nhiều
người vẫn còn coi Xuân thu Chiến quốc là thời đại đen tối, chia rẽ, rối loạn,
chư hầu cát cứ, quân phiệt hỗn chiến. Về căn bản, họ chưa nghĩ xem một xã hội
đen tối thì sao có thể xuất hiện tình hình Trăm hoa đua nở, Trăm nhà
đua tiếng? Sao có thể sinh ra được nhiều như thế các nhà tư tưởng, nhà
chính trị, nhà quân sự, nhà văn học và nhà khoa học? Sao có thể làm cho các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội xuất hiện cảnh tượng phơi phới vươn lên,
phát triển mạnh mẽ như thế?
Cho tới nay rất nhiều
người vẫn coi việc Tần Thủy Hoàng dùng bạo lực thống nhất 6 nước, xây dựng quốc
gia chế độ chuyên chế hoàng đế đại nhất thống cao độ là một tiến bộ vĩ đại của
lịch sử. Thế nhưng họ không nghĩ xem nếu là tiến bộ vĩ đại thì vì sao sau khi
Tần diệt xong 6 nước, Trung Quốc lại không tái xuất hiện các nhà tư tưởng vĩ
đại như Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử? Vì sao nước ta luôn luôn xuất hiện tình
trạng loạn lạc có tính chu kỳ mà không thể nào thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn
đó? Vì sao người Trung Quốc trong xã hội triều đại nhà Tần sống khổ như vậy? Vì
sao xã hội nhà Tần nhanh chóng thiên hạ đại loạn rồi đi tới sụp đổ?
Cho tới nay rất nhiều
người vẫn cho rằng triều đại nhà Tống là một triều đại chuyên chế, thối nát,
lạc hậu, nghèo yếu; họ có thái độ phủ định toàn bộ đối với nền văn minh do nhà
Tống tạo nên. Thế nhưng họ chưa nghĩ xem nếu là một xã hội chuyên chế, thối
nát, lạc hậu, nghèo yếu như thế thì tại sao xã hội ấy lại sáng tạo nên một nền
văn minh dẫn đầu thế giới hơn 100 năm? Vì sao xã hội ấy cống hiến cho thế giới
những phát minh vĩ đại như thuốc nổ, kim chỉ nam, kỹ thuật in chữ rời? Vì sao
dưới đời nhà Tống lại xuất hiện nền kinh tế hàng hóa phồn vinh như trình bày
trong “Thanh minh thượng hà đồ”? Tại sao người nhà Tống lại sinh ra tiết tháo
vĩ đại “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”? Vì
sao người nhà Tống lại sinh ra được khí tiết dân tộc cao thượng như “Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”?[2]
Cho tới nay rất nhiều
người còn thích thú cái gọi là “Khang Càn thịnh thế” [thời kỳ phồn thịnh dưới
các triều vua Khang Hy, Ung Chính và Càn Long, kéo dài 134 năm]. Thế nhưng họ
không nghĩ xem, nếu “Khang Càn thịnh thế” tiến bộ, phồn vinh như vậy thì tại
sao hoàng đế Càn Long mới chết được có 41 năm thì Trung Quốc lại phải cắt đất,
bồi thường, mất chủ quyền, làm đất nước chịu nỗi ô nhục khi bị súng lớn của
người nước ngoài bắn phá? Vì sao từ đó trở đi người Trung Quốc bị coi là bệnh
nhân Đông Á, bị người ta coi là quái vật và đồ ngu ngốc để cái đuôi lợn ở sau
gáy [tức để đuôi sam]? Vì sao Cung Tự Trân[3] lại phải viết câu thơ bi đát “Cửu
châu sinh khí thị phong lôi, vạn mã tề âm cứu khả ai, ngã khuyên thiên công
trọng đẩu sậu”?
Giờ đây mọi người đều nói
phải phục hưng văn minh Trung Hoa vĩ đại. Nhưng khi nói thế phải chăng mọi
người đã nghĩ tới chuyện thế nào là văn minh Trung Hoa vĩ đại? Cái vĩ đại của
nó thể hiện trên những mặt nào? Ngày nay cần phục hưng văn minh Trung Hoa như
thế nào? Có ai đã thực sự làm rõ các vấn đề này chưa? Nếu còn chưa rõ văn minh
Trung Hoa vĩ đại ở chỗ nào thì sao có thể nói tới chuyện phục hưng nó?
Đại loại những vấn đề ấy
đều không thể không làm cho người ta có một cảm giác mạnh mẽ: tuy đã trải qua
mấy chục năm cải cách mở cửa, người Trung Quốc vẫn chưa có nhận thức tỉnh táo
về lịch sử nền văn minh của mình, vẫn còn ở trạng thái mông muội. Họ hoàn toàn
chưa làm rõ cái nào là tiên tiến, cái nào là lạc hậu, cái nào là văn minh, cái
nào là dã man. Nếu nói trong thời đại Cách mạng Văn hóa trước cải cách mở cửa,
do lý thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp còn khống chế tư tưởng mọi người,
họ không thể nhận thức đúng đắn lịch sử của nước mình, điều đó có thể thông
cảm, thế thì ngày nay đã cải cách mở cửa mấy chục năm rồi mà người Trung Quốc
vẫn còn chẳng hề động lòng, vẫn tê liệt cảm giác, thì điều đó rất không nên có.
Một quốc gia, một dân tộc sao có thể lâu dài ở vào trạng thái như vậy? …
Chính vì nguyên nhân đó
mà tôi cảm thấy cần thiết phải dùng các quan điểm văn minh hiện đại như
dân chủ, pháp trị, tự do và nhân quyền để triệt để tái suy ngẫm lịch sử nền văn
minh Trung Quốc. Tôi cảm thấy trước tình hình phát triển kinh tế nhanh
chóng của Trung Quốc, chúng ta cần tiến hành tái suy ngẫm sâu sắc lịch sử nền
văn minh nước ta. Có như vậy thì mới hiểu được vì sao Trung Quốc ngày nay lại
như thế này, mới biết được người Trung Quốc đã làm đúng làm sai những mặt nào,
tại sao người Trung Quốc lại mắc các sai lầm ấy, qua đó hấp thu những bài học
kinh nghiệm hữu ích…
Một vấn đề hiện thực nhất
là nên cải cách thể chế chính trị hiện nay như thế nào nhằm thích ứng tình hình
kinh tế phát triển nhanh chóng của nước ta, qua đó xây dựng nên một xã hội dân
chủ, pháp trị, công bằng, tự do và hài hòa. Có người cho rằng Trung Quốc muốn
cải cách thể chế chính trị một cách hữu hiệu thì phải bắt chước mô hình chính
trị dân chủ của phương Tây, thực hành thể chế hiến chính dân chủ toàn dân tranh
cử, các chính đảng thay nhau nắm chính quyền, tam quyền phân lập v.v…, cũng tức
là toàn bộ Tây hóa. Nhưng cũng có người cho rằng mô hình chính trị phương Tây
không thích hợp tình hình Trung Quốc, việc cải cách thể chế chính trị Trung
Quốc tuyệt đối không được đi con đường toàn bộ Tây hóa.
Vậy thì rốt cuộc Trung
Quốc có thể đi con đường toàn bộ Tây hóa được không? Nếu không thì đi con đường
thế nào? Nói phải xây dựng xã hội XHCN có đặc sắc Trung Quốc, thế thì thể chế
chính trị của xã hội ấy nên như thế nào? Nếu nói chế độ chính trị Trung Quốc
hiện nay rất hoàn thiện, không cần cải cách, thế thì vì sao lại xảy ra những
đại bi kịch lịch sử như “Chống phái hữu”, “Đại Nhảy vọt”, và “Cách mạng văn
hóa”? Vì sao trước những tai họa dân tộc cực kỳ nặng nề như vậy mà chế độ của
chúng ta lại không có bất cứ phản kháng nào? Khi Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và
nhiều nhà lãnh đạo cùng các nhà trí thức và dân chúng bị đối xử bất công mà
chết, vì sao chế độ của chúng ta không thể bảo vệ họ một cách mạnh mẽ? Vì sao
hiện nay các hiện tượng thối nát như quan chức và doanh nhân câu kết, quyền và
tiền trao đổi với nhau, biến của công thành của tư, tiêu xài hoang phí, mua
quan bán chức, bọn xã hội đen điên cuồng hoạt động, và quyết sách sai lầm, phân
phối bất công, đạo đức suy đồi, lãng phí tài nguyên, môi trường sống xấu đi…
lại chưa được giải quyết triệt để?
Cho nên xét theo tình
hình thực tế, thể chế chính trị của Trung Quốc không những phải cải cách mà còn
phải tăng tốc quá trình cải cách. Nếu không thì không thể tưởng tượng được việc
làm sao có thể xây dựng Trung Quốc thành một xã hội thực sự dân chủ, pháp trị,
tự do và hài hòa, làm sao có thể thực hiện được mục tiêu Trung Quốc ổn định lâu
dài, kinh tế phát triển bền vững, ổn định và lành mạnh.
Lịch sử chứng tỏ, phát
triển kinh tế không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của xã hội, chỉ có
xây dựng một chế độ chính trị tốt đẹp thì quốc gia mới có thể đi lên quỹ đạo
phát triển lành mạnh, thực hiện ổn định lâu dài. Nhà kinh tế nổi tiếng
Dương Tiểu Khải có viết bài “Thế yếu của quốc gia đi sau” vạch ra vấn đề này.
Ông cho rằng các quốc gia lạc hậu do phát triển muộn nên có rất nhiều thứ có
thể bắt chước các nước phát triển.
Có hai hình thức bắt
chước. Một là bắt chước chế độ và một là bắt chước công nghệ và mô hình công
nghiệp hóa. Vì là nước đi sau cho nên có thể, dưới tình hình chưa có chế độ cơ
sở, thông qua bắt chước công nghệ mà thực hiện phát triển nhanh. Có điều là,
kiểu bắt chước ấy tuy có thể làm cho quốc gia lạc hậu trong một thời gian ngắn
phát triển rất tốt, nhưng lại sẽ để lại nhiều tai họa âm ỉ, thậm chí phát triển
lâu dài có thể thất bại, nguyên nhân là ở chỗ không có một chế độ xây dựng tốt
để làm đảm bảo. Cho nên ông hy vọng Trung Quốc không nên đi con đường của các
nước châu Mỹ Latinh, do chưa xây dựng được một chế độ xã hội tự do, công bằng,
tuy có một thời gian phồn vinh nhưng cuối cùng các nước này đều suy thoái; nên
nhìn thẳng vào thế yếu của quốc gia đi sau, dùng việc xây dựng chế độ có tính
cơ sở để thực hiện “Dùng chế độ [chính trị] để đưa đất nước
tiến lên”. Dương Tiểu Khải cho rằng, từ Ngũ Tứ trở đi, người Trung Quốc đề
xướng nhiều về dân chủ và khoa học nhưng lại bỏ qua tự do và cộng hòa. Ông cho
rằng, trên ý nghĩa nào đó, tự do và cộng hòa càng quan trọng hơn dân chủ và
khoa học. Cũng tức là nói chỉ có xây dựng quy tắc hiến chính và cơ chế cam kết
khả tín của Chính phủ, hạn chế các hành vi chủ nghĩa cơ hội của Chính phủ, bảo
đảm xã hội công bằng chính trực, bảo đảm quyền lợi và tự do của cá nhân, phát
huy đầy đủ sức sáng tạo của cá nhân, đó mới là cái căn bản để Trung Quốc đi lên
giàu mạnh phồn vinh.
Sau sự kiện 4/6/1989,[4] xã hội Trung Quốc đã thay đổi rất
lớn. Một mặt sức mạnh quốc gia tăng lên, một số thiết bị hạ tầng cơ sở như
thông tin liên lạc, năng lượng, xa lộ cao tốc và xây dựng đô thị đều đã tiếp
cận hoặc đạt mức của một số nước phát triển, nhìn chung đời sống nhân dân được
nâng cao rất nhiều. Nhưng mặt khác, mô hình Nhà nước chủ đạo tập trung tài
nguyên đầu tư thiếu sự xây dựng chế độ tốt, thiếu sự giám sát mạnh mẽ của xã
hội, kết quả cũng có mặt tiêu cực lớn. Đó là quan chức nhà nước lợi dụng quyền
lực trong tay tiến hành tham nhũng trên các mặt đề bạt cán bộ, trưng thu ruộng
đất, đấu thầu dự án, dẫn đến sự phình to bộ máy quan liêu và tham nhũng, cộng
với sự bất công trong phân phối và sự suy đồi đạo đức của mọi người đã gây nên
những vấn đề xã hội nổi trội.
Trước tình hình đó nhiều
nhà trí thức đã kêu gọi Trung Quốc cần tăng tốc cải cách thể chế chính trị,
từng bước xây dựng chế độ hiến chính dân chủ, bảo đảm quyền tự do và các quyền
lợi hiến pháp quy định cho nhân dân về ngôn luận, tư tưởng, tín ngưỡng, xuất
bản, hội họp, lập hội, sao cho Trung Quốc đi lên quỹ đạo dân chủ và pháp trị,
để cho Trung Quốc chẳng những có văn minh vật chất mà còn có nền văn minh tinh
thần vĩ đại.
Lịch sử chứng tỏ trên thế
giới không có chế độ hoặc nền văn minh nào mười phân vẹn mười. Dưới chế độ cộng
hòa dân chủ và lập hiến, xã hội vẫn có tham nhũng, có sự cấu kết quan chức với
doanh nhân, hiệu suất hành chính thấp và các hiện tượng bất công, bất hợp lý.
Nhưng dưới chế độ hiến chính dân chủ, các hiện tượng đó không cấu thành sự thối
nát có tính hệ thống, không nguy hại tới sự vận hành bình thường nền hành chính
quốc gia; nếu có thì cũng dễ bị nhanh chóng vạch ra và được sửa chữa. Nhưng chế
độ chuyên chế trung ương tập quyền có một tệ nạn lớn nhất là toàn bộ hệ thống
quan liêu từ trên xuống dưới đều thối nát sa đọa và lừa dối, kiểm soát khống
chế, tước đoạt nhân dân nhưng lại khó bị vạch ra –– bởi lẽ quyền lực không bị
giám sát hữu hiệu.
Bởi vậy, cho tới nay mô
hình chính trị dân chủ phương Tây vẫn là mô hình tương đối tiên tiến, có tác
dụng hữu hiệu chế ngự quyền lực và chống tham nhũng, có giá trị phổ quát trên
thế giới, không phụ thuộc vào ý thức hệ tư bản hay chủ nghĩa xã hội. Xã hội
loài người cho tới nay chưa phát minh được một chế độ nào tốt hơn có thể thay
thế chế độ hiến chính dân chủ. Cho nên người Trung Quốc nên cố gắng học tập và
bắt chước thành quả văn minh ưu tú này của nhân loại. Các nước phương Tây đã
học tập và áp dụng “Tứ đại phát minh” của Trung Quốc (thuốc nổ, kim chỉ nam, kỹ
thuật in chữ rời và chế độ khoa cử), thế thì vì sao Trung Quốc không học và áp
dụng chế độ hiến chính dân chủ của phương Tây?
Trong sách “Tiến trình
cải cách” ghi lại lời cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Triệu
Tử Dương có đoạn viết: “Dĩ nhiên một ngày nào đó trong tương lai có thể sẽ
xuất hiện một chế độ chính trị tốt hơn, cao cấp hơn chế độ nghị viện dân chủ,
nhưng đó là chuyện tương lai, bây giờ chưa có. Vì thế có thể nói một quốc gia
muốn thực hiện hiện đại hóa, thì chẳng những phải thực hành kinh tế thị trường,
phát triển văn minh hiện đại, mà còn phải thực hành chế độ chính trị dân chủ.
Nếu không thì quốc gia ấy không thể làm cho nền kinh tế thị trường của mình trở
thành kinh tế thị trường lành mạnh, hiện đại hóa, cũng không thể thực hiện xã
hội pháp trị hiện đại. Sẽ lại như nhiều nước đang phát triển (trong đó
có Trung Quốc), xuất hiện tình trạng quyền lực thị trường hóa, xã hội
thối nát và phân hóa hai cực nghiêm trọng.”
Nguyên là Tổng Bí thư
ĐCSTQ, những năm cuối đời ông Triệu Tử Dương suy đi nghĩ lại rút ra được kết
luận như trên không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đó là sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn chính trị nhiều năm, là kết quả tái suy ngẫm của ông về con đường
phát triển của Trung Quốc. Vì thế các quan điểm của ông rất đáng được mọi người
coi trọng.
Dĩ nhiên, tại Trung Quốc,
một quốc gia đất rộng người đông và có mấy nghìn năm truyền thống chuyên chế,
muốn tùy tiện vội vàng tiến hành cải tạo toàn bộ theo hướng của phương Tây thì
chắc chắn có khó khăn. Bởi lẽ trong lịch sử mấy nghìn năm nước này chưa thực sự
xuất hiện cơ sở xã hội để thực hành chính trị dân chủ phương Tây. Trong lịch sử
cận đại Trung Quốc cũng từng thực hành những cải tạo phương Tây hóa như áp dụng
chế độ quân chủ lập hiến và xây dựng Trung Hoa Dân quốc và vì thế người Trung
Quốc đã phải trả giá bằng nhiều hy sinh lớn, song kết quả chẳng những không
thành công mà còn làm cho xã hội Trung Quốc về sau lâm vào nguy cơ sâu sắc hơn.
Bởi vậy cần làm thế nào
để, dưới tiền đề giữ vững ổn định xã hội, đẩy mạnh cuộc cải cách thể chế chính
trị nhằm thực hiện sự đổi mới nền văn minh Trung Quốc –– đã trở thành vấn đề
quan trọng nhất hiện nay. Tìm ra được câu trả lời cho vấn đề này là trách nhiệm
thiêng liêng của ngành khoa học xã hội Trung Quốc. Muốn thiết kế thành công
việc cải cách thể chế chính trị Trung Quốc thì phải học mô hình chính trị tiên
tiến của phương Tây, cũng phải hấp thu kinh nghiệm và bài học trong lịch sử
Trung Quốc, bởi lẽ việc xây dựng mô hình chính trị của Trung Quốc thì bắt nguồn
từ truyền thống lịch sử lâu dài của nước này.
Chính là xuất phát từ
động cơ ấy, trong cuốn sách này tôi đã đối chiếu sự phát triển văn minh phương
Tây để chú trọng nghiên cứu một số vấn đề như sau: Vì sao Trung Quốc cổ đại chỉ
có thể sinh ra nền văn minh nhất nguyên hóa chuyên chế quân chủ mà không sinh
ra được nền văn minh đa nguyên hóa dân chủ như Cổ Hy Lạp, Cổ La Mã? Nền văn
minh chuyên chế nhất nguyên hóa của Trung Quốc ra đời như thế nào, rồi phát
triển và tăng cường ra sao? Vì sao trong xã hội chuyên chế quân chủ, dưới thời
Đường Tống, nhất là đời nhà Tống, người Trung Quốc lại có thể sáng tạo được nền
văn minh tiên tiến dẫn đầu thế giới trong hơn 100 năm? Vì sao phương Tây có thể
sinh ra được nền chính trị lập hiến? Vì sao nền văn minh nhất nguyên hóa của
phương Tây thời Trung thế kỷ lại có thể thực hiện chuyển đổi thành nền văn minh
đa nguyên hóa? Còn nền văn minh nhất nguyên hóa của Trung Quốc trong thời kỳ cận
đại vì sao lại không thể chuyển đổi như vậy? Đâu là nguyên nhân căn bản gây ra
sự thất bại chuyển đổi ấy? vv….
Đồng thời tôi còn phân
tích tình trạng văn minh xã hội Tây Chu, Xuân Thu Chiến quốc và các triều đại
Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; phân tích và đánh giá một loạt sự
kiện lớn như Biến pháp Thương Ưởng, nước Tần diệt 6 nước xung quanh, Chiến
tranh Thuốc Phiện, Duy Tân Mậu Tuất, chế độ quân chủ lập hiến, Cách mạng Tân
Hợi, phong trào Ngũ Tứ, sự kiện tự trị liên tỉnh năm 1921, phong trào Hiến
chính năm 1946. Ngoài ra còn trình bày các tìm hiểu về tư tưởng Nho Giáo và
phương thức tư duy của người Trung Quốc.
Do trình độ có hạn của
tác giả, nhiều quan điểm và cách nhìn chưa chắc đã chính xác; nhưng tôi cảm
thấy quan điểm của cá nhân chính xác hay không, điều đó không phải là quan
trọng nhất. Sự tái suy ngẫm sâu sắc về lịch sử nền văn minh Trung Quốc
mới là điều quan trọng, bởi lẽ nó sẽ giúp mọi người tái nhận thức một
cách khách quan lịch sử nước mình, giúp mọi người thăm dò khám phá kinh nghiệm
thành công và mô hình cải cách thể chế chính trị. Điều đó có ý nghĩa tích cực
đối với việc nâng cao tố chất dân tộc, thúc đẩy văn minh Trung Quốc tiến lên,
thúc đẩy việc xây dựng Trung Quốc hiện đại hóa.
Cốt lõi của nền văn minh
hiện đại là hạn chế sự lạm dụng quyền lực công của Chính phủ, bảo đảm quyền lợi
và tự do của các cá nhân. Hiến chương Liên Hợp Quốc thông qua ngày 26/6/1946
coi “Tăng tiến và khích lệ sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản
của toàn nhân loại” là một trong các tôn chỉ của Liên Hợp Quốc. Tuyên
ngôn nhân quyền thế giới do Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948, câu đầu
tiên viết: “Thừa nhận sự tôn nghiêm vốn có, sự bình đẳng và các quyền lợi
của tất cả các thành viên trong gia đình là nền tảng của tự do, công bằng và
hòa bình thế giới … Một thế giới mọi người được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự
do tín ngưỡng và thoát được mọi nỗi sợ hãi và cảnh nghèo đói đã được tuyên bố
là nguyện vọng cao nhất của dân chúng.”
Trung Quốc là nước ký
Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn nhân quyền. Cố nhiên Chính phủ Trung
Hoa Dân quốc phải gánh vác nghĩa vụ thực hiện các nguyên tắc đó. Tháng 10/1945,
Mao Trạch Đông tuyên bố với tư cách Chủ tịch Chính phủ trung ương của Đảng
CSTQ: Trung Quốc phải thực hiện “Các nguyên tắc dân sở hữu, dân trị, dân
hưởng của Lincoln và 4 tự do lớn của Roosevelt”.
Trong Hiệp định
Song thập do đảng Cộng sản và Quốc dân đảng Trung Quốc ký năm 1945
và Cương lĩnh xây dựng hòa bình do hai đảng nói trên cùng một
số đoàn thể chính trị khác ký năm 1946 đều xác định mục tiêu Trung Quốc sẽ thực
hành chế độ hiến chính dân chủ và xây dựng Trung Quốc thành một nước dân chủ,
tự do, hòa bình, giàu mạnh.
Sự thành bại của một quốc
gia được quyết định bởi trình độ tự do cá nhân sống trong quốc gia đó, trình độ
chuyển biến từ thần dân thành công dân của họ. Nghiêm Phục[5] nói: “Quốc quý tự chủ, dân quý tự
do”. Ông cho rằng then chốt sự thành bại của quốc gia là cá nhân “có tự
do hay không có tự do”. Một quốc gia mà cá nhân không có tự do tư tưởng,
không có nhân cách độc lập thì đó là cái gốc của việc quốc gia đó chưa thể đi
lên con đường hiện đại hóa, chưa thể trở thành nước lớn mạnh, người dân chưa
thể trở thành công dân.
Có người cho rằng quyền
sinh tồn là quyền con người lớn nhất; giờ đây người Trung Quốc đã được hưởng
đầy đủ quyền sinh tồn tức là đã được hưởng nhân quyền. Đây là quan điểm sai
lầm. Quyền sinh tồn không phải là quyền lợi riêng của loài người; các loài động
vật cũng có quyền sinh tồn. Coi nhu cầu sinh lý và bản năng kiếm sống của giới
động vật là nhân quyền –– đây là sự bóp méo và báng bổ nhân quyền. Nhân quyền
là quyền lợi riêng loài người mới có; nhân quyền có hàm nghĩa rất rõ ràng: đó là
tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do xuất bản, tự do
hội họp lập đoàn thể v.v… Đây là nội dung nhân quyền do hiến pháp quy định.
Muốn bảo đảm thực hiện những quyền con người đó thì phải mở rộng nền chính trị;
nếu không thì không thể bảo đảm nhân quyền.
Hiện nay Đài Loan đã đi
lên con đường hiến chính dân chủ. Đại lục Trung Quốc cũng nên thực hiện lời cam
kết của mình, từng bước ổn thỏa mở rộng nền chính trị, đi lên văn minh hiện đại
hiến chính dân chủ. Việc xây dựng nền hiến chính dân chủ không thể xa xôi vô
thời hạn, trở thành cái bánh vẽ trong đầu óc người Trung Quốc, mà nên có thời
gian biểu, có lộ trình nhằm chấn hưng tinh thần dân tộc, tăng lòng tin của nhân
dân về tương lai và tình yêu đất nước, tăng lực ngưng tụ lòng người. Điều này
vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng một quốc gia vĩ đại.
Ngày nay, khi ôn lại lịch
sử, chúng ta không thể không vô cùng hy vọng về tương lai của Trung Quốc, nhưng
cũng không thể không cảm khái sâu sắc về sự thay đổi của lịch sử: mô thức thay
đổi triều đại theo kiểu được làm vua thua làm giặc khiến cho người Trung Quốc
chịu đựng quá nhiều đau khổ; cường quyền và bạo lực nên được chấm dứt; đằng sau
quốc nạn tham nhũng là các khiếm khuyết nghiêm trọng về chế độ, quyền lực thiếu
chế ước khiến cho các quan chức mặc sức làm bậy. Sự mở rộng vô hạn quyền của
quan chức đã trở thành nguồn gốc của các trở ngại tiến bộ xã hội và mất ổn định
xã hội. Cho dù xây dựng chế độ gì, áp dụng mô hình chính trị nào thì mọi quốc
gia đều phải coi hiến chính dân chủ là sự xếp sắp chế độ cơ bản không thể thiếu
được, đều phải đặt vấn đề hạn chế quyền lực Chính phủ và tôn trọng quyền lợi và
sự tự do của mỗi cá nhân lên vị trí hàng đầu.
Một quốc gia văn minh thì
phải giải quyết mọi vấn đề trên cơ sở dân chủ, pháp trị, bất cứ ai cũng phải
hoạt động trong phạm vi hiến pháp. Trong tình hình bị cưỡng chế bạo lực, mọi
công dân không nên làm những việc đi ngược ý chí của mình. Nếu công dân bị
cưỡng bức nói ngược lòng mình, làm ngược lòng mình thì chẳng còn tự do gì để
bàn. Chỉ cần không vi phạm hiến pháp và pháp luật thì không công dân nào nên bị
cưỡng chế. Nhà tư tưởng Anh Karl R. Popper có một danh ngôn: “Mỗi
người đều chỉ có quyền hy sinh vì sự nghiệp của mình nhưng không ai
có quyền khuyến khích người khác hy sinh vì một lý tưởng.” Điều này
nên là nguyên tắc cơ bản mà một xã hội văn minh phải tuân theo.
Việc xây dựng chế độ hiến
chính dân chủ của phương Tây bắt nguồn từ một tư tưởng quan trọng –– đó là
không tín nhiệm quyền lực, cũng tức là không tin vào nhân trị. Kinh Thánh nói “Ngoài
Thượng Đế ra, chẳng có ai là lương thiện cả.” Nếu con người đã
không tin cậy được thì ắt phải tiến hành chế ước quyền lực do con người nắm
giữ. Vì thế các quốc gia phương Tây đặt ra nhiều trình tự để phân tán quyền lực
và tiến hành chế ước lẫn nhau giữa các quyền lực, qua đó ngăn ngừa sự lạm dụng
quyền lực của Chính phủ. Ví dụ như bầu cử dân chủ, tự do báo chí, chính trị đa
đảng, địa phương tự trị, tam quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) phân lập,
kiểm sát viên độc lập, đoàn bồi thẩm độc lập, chánh án độc lập, nhà nước hóa
quân đội v.v… Việc đặt ra, xây dựng và hoàn thiện các chế độ đó đã trải nghiệm
qua mấy trăm năm, trong đó tư tưởng cơ bản là bảo đảm các quyền lợi và sự tự do
cá nhân không bị chính quyền xâm phạm. Có lẽ những chế độ đó chưa phải là
phương thuốc hiệu nghiệm có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề, nhưng nó là một
mô hình sinh hoạt lý tưởng mà nhân loại theo đuổi, là then chốt để một quốc
gia, một dân tộc đi lên hưng thịnh.
Trong thời kỳ cận đại, vì
để thực hiện mục tiêu vĩ đại hiến chính dân chủ tại Trung Quốc, nhiều người đã
nối tiếp nhau tiến lên, nhiều vị tiên liệt như Đàm Tự Đồng, Tôn Giáo Nhân đã
đầu rơi máu chảy, trả những cái giá lớn, thế nhưng với người Trung Quốc thì
hiến chính dân chủ vẫn như bóng trăng dưới nước, đóa hoa trong gương, có thể
nhìn thấy nhưng không thể sờ vào. Năm 1911, Trung Quốc xây dựng nên nước cộng
hòa đầu tiên của châu Á. Tiếp đó năm 1949 lại một lần nữa xây dựng nước cộng
hòa. Ngày ấy người Trung Quốc đều nghĩ rằng dân chủ đã đến với họ. Thế nhưng cuối
cùng thì vẫn là sự thay đổi triều đại kiểu được làm vua thua làm giặc, giấc mơ
dân chủ tự do của người Trung Quốc vẫn là cái ảo ảnh.
Vì sao thực hiện dân chủ
tự do tại Trung Quốc lại khó như vậy? Vì sao người Trung Quốc lại vô duyên với
dân chủ tự do như vậy? Đây là một câu hỏi muôn thủa. Để giải đáp câu hỏi này,
rất nhiều người đã nghiên cứu bàn luận nhưng chưa ai có thể đưa ra câu trả lời
được mọi người tin phục.
Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu tìm hiểu của những người đi trước, sách này tiến hành phân tích bàn thảo
một lần nữa về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, tính cách dân
tộc, nhằm tìm ra những chứng cớ và con đường để Trung Quốc có thể đi lên văn
minh hiện đại. Mong rằng các quan điểm của sách này có thể cung cấp cho mọi
người một số gợi ý hữu ích.
Tiêu Kiện Sinh(萧 建 生, 1955-), nhà báo, người dân tộc Thổ Gia tỉnh Hồ Nam, tốt nghiệp ngành văn học Hán ngữ Đại học Phát thanh Truyền hình Trung ương, hiện là biên tập viên “Nhật báo Hồ Nam”.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch từ nguồn tiếng Trung 中国文明的反思(前言). 新世纪出版社, 香港, 2009年9月25日. Bài viết nhân dịp Quốc khánh Trung Quốc và kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tân Hợi (10/10/1911).
————-
[1] Kính thiên thuận đạo 敬天顺道: Kính trọng Trời, thuận theo Đạo, nghĩa
là tuân theo quy luật của thiên nhiên. Vô vi nhĩ trị 无为而治: Cai trị thiên hạ thuận theo tự nhiên, để cho dân tự do phát triển. Nhân giả ái nhân 仁者爱人: Người có lòng Nhân thì tràn đầy tình yêu
thương, là người có trí tuệ lớn, có nhân cách cao cả. Kỷ sở bất dục,
vật thi ư nhân己所不欲勿施於人: Điều gì mình không muốn thì cũng đừng áp cho
người khác (Theo baike.baidu.com).
[2] 人生自古誰無死, 留取丹心照汗青 Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Xưa nay có ai sống mãi không chết đâu, (tôi muốn) để lại tấm lòng son yêu nước để chiếu rọi sử sách. Ý nói người có lý tưởng
cao quý thì sẵn sàng chết vì sự nghiệp của nước nhà. Một câu trong bài thơ nổi
tiếng “Quá Linh Đinh Dương” của Trạng nguyên Văn Thiên Tường 文天祥 (1236-1283), vị tướng chống giặc Nguyên xâm lược và nhà thơ yêu
nước đời Nam Tống.
[3] Cung Tự Trân, 龚自珍1792-1841, nhà tư tưởng và nhà văn học đời Thanh, chủ trương chống sự xâm lược của phương Tây, vạch trần sự thối nát
của xã hội phong kiến. Đoạn thơ đầy đủ là 九州生氣恃風雷,萬馬齊喑究可哀. 我勸天公重抖擻,不拘壹格降人才. Ý nói: Bất mãn sâu sắc trước bầu không khí nặng nề của xã hội TQ cuối đời Thanh, tác giả kêu gọi cải cách xã hội, cho rằng biến đổi càng lớn càng tốt, lớn đến như tiếng sấm mùa xuân kinh thiên động địa;
tôi khuyên ông Trời hãy chấn phấn tinh thần, đem người tài cho chúng tôi.
[4] Vụ đàn áp cuộc biểu tình của sinh viên
ngày 4/6/1989 tại quảng trường Thiên An Môn.
[5] 严复, 1854-1921, nhà tư tưởng khai sáng, nhà giáo dục và phiên dịch nổi tiếng đời
Thanh. Quốc quý tự chủ, dân quý tự do: Ý nói tự chủ là điều
quý nhất đối với quốc gia, tự do là điều quý nhất đối với nhân dân.
No comments:
Post a Comment