(MÊNH MÔNG THẾ SỰ ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI, SỐ 106)
14/03/2021
http://vanviet.info/van-de-hom-nay/phan-dau-lm-chi-cho-met-mnh-mng-the-su-de-gi-cuon-di-so-106/
Đó là chuyện “phấn
đấu đại biểu là người ngoài Đảng từ 25-50” mà bà Chủ tịch Quốc hội vừa
phát biểu. Bà phải phấn đấu hay Đảng phải phấn đấu, hay cả dân tộc gồm gần 100
triệu người phải phấn đấu nhỉ?
Chắc là bà Chủ tịch Quốc
hội thừa biết cái chỉ tiêu được ban phát “từ 25-50” ấy đến từ đâu. Chắc không
từ Quốc hội, càng không từ Mặt trận Tổ quốc mà là từ Đảng. Một sự chồng chéo
kéo dài thực trạng “hai nhà nước trong một nhà nước” mà nhà nước
Đảng lại ngồi chồm chỗm trên cái Nhà nước – mà trên danh nghĩa là do dân bầu,
dân uỷ quyền – trên cả Hiến pháp, đã gây nên những hệ luỵ quá lớn, kìm đất nước
trong sự trì trệ quá dài với chế độ toàn trị phản dân chủ của một nhà nước độc
đảng, mà đảng cầm quyền lại không do dân bầu.
Vì vậy mà phải đổi mới. “Trong
lúc này chúng ta chỉ có hai khả năng lựa chọn: đổi mới để tiến lên hay đi theo
con đường cũ để chết”, đấy là sự khẳng định của Trường
Chinh, người phất cao ngọn cờ Đổi Mới tại Đại hội VI. Mà Đổi Mới trước hết từ
bỏ mô hình Xô Viết đã sụp đổ, trong đó “vô sản chuyên chính” được
vận dụng quyết liệt theo luận thuyết của Stalin là sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin càng gần thắng lợi thì cuộc đấu
tranh giai cấp càng quyết liệt hơn, càng phải thực hành chuyên chính vô sản
triệt để!
Khốn khổ thay, Việt Nam
lại bập ngay vào cái quan điểm tệ hại đó, nhất là khi lại bị ảnh hưởng nặng nề
của “chủ nghĩa Mao”. Đau đớn hơn nữa ở Việt Nam “vô sản chuyên chính” được bập
vào quá sớm, “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” – hệ luỵ
trực tiếp của “Luận cương Trần Phú” năm 1930 – cho dù sau đó
Nguyễn Ái Quốc đã cố gắng ngăn chặn lại qua một chỉ thị của Quốc tế Cộng sản “Từ
trước các đồng chí chưa rõ vấn đề ấy, mà nay cũng vẫn mập mờ, nên dù tổ chức
cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là một màu sắc nhất định – như: Công hội
đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh hội đỏ và Cứu tế đỏ; do đó thiếu mặt tổ
chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản
dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào lớp giữa cũng vậy, và cho tới cả những
người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để
đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp,
để cần kíp tổng động viên toàn dân…”1.
Nhưng rồi khi Đảng đã trở
thành Đảng cầm quyền, rõ hơn là từ sau 1975, “chuyên chính vô sản”
thực chất là chuyên chính của người cầm quyền được đẩy
tới một cách mạnh mẽ. Tại sao? Tại vì trong sự chuyên chính của người cầm quyền
ấy lại có cái quyền giữ cho được cái ghế họ đang ngồi! Cái
ghế đó gắn chặt với lợi ích của chính họ, mà vì thế, ai động đến
cái ghế ấy thì phải chuyên chính một cách quyết liệt! Cái ghế quyền lực ấy ngày
càng nảy nòi ra không biết bao nhiêu sự thối nát.
Điều ấy rất dễ hiểu: “Quyền lực có xu hướng tha hoá. Quyền lực càng tuyệt
đối thì sự tha hoá cũng tuyệt đối”. (All power tends to corrupt and
absolute power corrupts absolutely). Sự tha hoá dễ thấy nhất là tham nhũng
(từ corrupt trong tiếng Anh còn có nghĩa là thối rữa, tham
nhũng). Đó là sự đúc kết rất sâu sắc và súc tích của Lord John Dalberg-Acton –
nhà sử học nổi tiếng được coi là người Anh thông thái nhất trong thời đại của
ông.
http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image002_thumb6.jpg
“Quyển lực làm con người tha hóa”
Và “nhà lý luận” Nguyễn
Phú Trọng đã sáng tạo ra một khái niệm “rất uyên bác” là phải “nhốt quyền
lực vào lồng cơ chế”. Vậy thì ông là người cần phải nhốt vào cái lồng
đó trước tiên. Bởi vì tham nhũng quyền lực là điều tệ hại nhất trong các kiểu
loại tham nhũng mà ông “thì treo giải nhất chi nhường cho ai”
khi chính ông từng lên án và ngăn chặn những ai có tham vọng quyền lực. 2 Rồi
cũng chính ông đã bằng mọi cách để giành lấy cái ghế quyền lực cao nhất, kể cả
giẫm đạp lên Điều lệ Đảng để đạt được khát vọng quyền lực ấy! Khốn nỗi đầu óc
Trọng không tạo ra nổi khái niệm “lồng quyền lực” này đâu mà
ông ta mượn của thầy ông ta: hoàng đế Tập Cận Bình! Ngày 22/1/2013, phát biểu
trước Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đòi “nhốt
quyền lực vào lồng chế độ” [把权力关进制度的笼子里] thì ngày 14/4/2016, nói chuyện với cán bộ chủ chốt của tỉnh Quảng Ninh, Trọng đề cập đến chuyện “nhốt” quyền lực vào
trong cơ chế, thể chế, rồi sau đó một thời gian đưa ra khái niệm lồng quyền lực
nói trên. Khốn khổ vậy đó.
Đề cập đến vấn đề quyền
lực này, Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương đã
phân tích rất đúng về sự tha hoá của quyền lực: “Quyền lực là “ma
túy” gây nghiện, là “ma quỷ” xui khiến. Có quyền lực là có thể có gần
như tất cả, nếu muốn. Vì vậy, quyền lực hấp dẫn hơn các thứ hấp dẫn khác cộng
lại. Người có tham vọng quyền lực suốt ngày nghĩ về nó, dùng mọi thủ đoạn để
giành và giữ lấy nó, dù phải mất nhân cách, dù phải làm việc ác. Có quyền lực
rồi thì muốn có quyền lực lớn hơn, lớn rồi vẫn chưa đủ lại muốn lớn hơn nữa. Cứ
thế, gần như không có điểm dừng, thậm chí không cần biết có nhiều quyền lực để
làm gì. Quyền lực làm tha hóa con người một cách nhanh nhất”.3
Đó là một trong những
nguyên nhân khiến ở Việt Nam “chuyên chính vô sản” kéo dài quá lâu, lâu
nhất trong các Đảng Cộng sản, kể cả đảng cầm quyền và đảng không cầm quyền trên
thế giới. Cho dù có lúc đã loé lên một tia sáng “không thể
vô sản lại chuyên chính với chính mình khi mà nhân dân ta đã giành được quyền
làm chủ đất nước” nhưng rồi tia sáng ấy đã chìm đi trong đám mây mù của
quán tính “tả khuynh”, càng “tả” càng cách mạng, càng vững lập trường! “Tả
khuynh” đi đôi với giáo điều như bóng với hình đè nặng lên đời sống tinh thần
của một dân tộc vốn từng quật khởi và không chịu lùi bước trước bất cứ một kẻ
thù cướp nước nào, bóp chết mọi sáng tạo, đặc biệt là sáng tạo của thế hệ trẻ.
Hệ luỵ của những chủ trương sai lầm do “tả khuynh” và giáo điều đó là đất nước
bị đẩy tới bên bờ vực của sự sụp đổ.
Đổi Mới với Đại hội VI đã
xua bớt đi đám mây mù tả khuynh giáo điều với những biến thái một khi mà quyền
lực có xu hướng tham nhũng đó, cũng có thể nói Đổi Mới trước hết là đổi mới tư
duy, “đây là một chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ hư hỏng để tạo ra
những những cái mới mẻ tốt tươi”4. Nhưng rồi, cuộc “cuộc
chiến đấu khổng lồ này”4, vấp phải sự ngoan cố bảo thủ và trì trệ của
cái quán tính “tả khuynh” tệ hại. Những khủng hoảng của thời kỳ trước Đổi mới
thực chất là khủng hoảng về chính trị. Và rồi cuộc khủng hoảng về chính trị ấy,
nhất là về lý luận chính trị chưa được giải quyết một cách triệt để,
tư tưởng tả khuynh và giáo điều dần dần trỗi dậy, công cuộc đổi mới có biểu
hiện co lại, tiếng kèn đổi mới lại ngập ngừng, có lúc lạc điệu để rồi xuất hiện
tư tưởng “phản đổi mới” thể hiện rõ nhất ở Đại hội XI với Nguyễn
Phú Trọng mà tôi đã nói rõ trong “Mênh mông thế sự… số 104”, xin được
miễn nhắc lại.
Điều cần nói thêm là hiện
nay thuật ngữ “chuyên chính vô sản” đã mất hẳn trong sách vở lý luận, trong các
“giáo trình chuẩn” nhưng có khi còn diễn đạt một cách mập mờ “chuyên chính nhân
dân thực chất là chuyên chính vô sản”. Dù sao thì bỏ được cụm từ chuyên chính
vô sản, bỏ chậm hơn hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới để
thay bằng khái niệm “hệ thống chính trị” cũng là một thay đổi
đáng kể. Tuy vậy, quan niệm hệ thống chính trị ấy vẫn còn mù mờ, và mù mờ nhất
là chưa giải đáp được dân tộc ở trong hay ở ngoài
“hệ thống chính trị”5. Sự mù mờ này sẽ dẫn tới
những biến thái của “chuyên chính vô sản” như cách diễn đạt nhập nhèm “chuyên
chính nhân dân làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản” trong việc đưa ra
những chính sách, giải pháp thực tiễn.
Xin đưa một ví dụ: Báo
Sài Gòn Giải phóng ngày 22.8.2006 đăng bài viết của Trần Trọng Tân, Phó bí thư
Thành uỷ, nguyên Trưởng ban Tư tưởng và Văn hoá Trung ương trong đó có câu “các
vấn đề lớn trong Văn kiện Đại hội X đều ẩn chứa nội dung và chức năng của
chuyên chính vô sản… mặc dầu không nhắc đến cụm từ chuyên chính vô sản”.
Cũng xin có vài lời về ông Trần Trọng Tân, người tôi từng có cảm tình khi ông
ra Hà Nội đảm nhiệm trọng trách Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương đã tìm
tôi và nhiều lần trao đổi ý kiến khá tâm đắc, thậm chí tôi đã phải cử một cán
bộ của Viện tôi, anh Nguyễn Phan Lâm làm cầu nối (mà chúng tôi gọi đùa là “sĩ
quan liên lạc”) giữa tôi và ông vì tôi không có thì giờ để thường xuyên gặp ông,
mà ông lại có nhiều vấn đề muốn trao đổi.
Một trong những vấn đề đó
là có những trí thức uyên bác dạy ở Đại học Tổng hợp Hà Nội đang bị chụp cho
“cái mũ xét lại” nên không thể phát huy được năng lực của mình, tôi chỉ nói
riêng trường hợp anh Trần Đình Hượu bạn tôi. Sau khi đọc một công trình nghiên
cứu uyên bác của anh Hượu tôi đưa cho ông, Trần Trọng Tân đã đồng ý với tôi nên
tổ chức một buổi thuyết trình của Trần Đình Hượu tại Hội trường Ban Tư tưởng và
Văn hoá trước đông đảo các nhà khoa học xã hội. Chính sau cuộc thuyết trình đó
– mà anh em gọi là được “cởi mũ” – Trần Đình Hượu mới được mời đi “thỉnh giảng”
ở nhiều nơi, trong đó có trường Đại học Aix-Marseille (AMU) tại
Aix-en-Provence.
Trong chuyến đi dự một
hội thảo ở Aix-en-Provence, tôi được giáo sư Trịnh Văn Thảo, Chủ nhiệm Khoa Xã
hội học của trường cho biết là những bài giảng của Trần Đình Hượu thu hút được
rất đông sinh viên, tên tuổi của Trần Đình Hượu được nhắc đến với lòng ngưỡng
mộ và trân trọng. Vì thế, tôi rất biết ơn ông Trần Trọng Tân về việc “cởi mũ
xét lại” cho anh Trần Đình Hượu. Thế nhưng tôi rất ngạc nhiên khi gặp ông tại
Sài Gòn, ông lại cố tình quay đi với thái độ dửng dưng như không hề quen biết
trên một chuyến xe buýt chở các đại biểu ra sân bay đi Hà Nội dự Đại hội Mặt
trận Tổ quốc lần thứ VI do chị Võ Ngọc Dung hướng dẫn. Tôi ngạc nhiên, nhưng
sau đó ngẫm nghĩ ra ông Trần Trọng Tân xa lánh tôi vì bất đồng quan điểm với
tôi và vì biết tôi đang là người gần gũi với ông Võ Văn Kiệt với tư cách là
thành viên trong nhóm tư vấn. Và bài viết trên báo Sài Gòn Giải phóng ngày
22.8.2006 nói trên là chĩa vào bài viết của ông Võ Văn Kiệt trước đó hai ngày.
Khi ông Kiệt có bài trao đổi lại thì báo Sài Gòn Giải phóng – dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của ai đó – không đăng.
Dài dòng chuyện này để nói
rằng, cái di luỵ của “chuyên chính vô sản” nặng nề và kéo dài đến thế nào. Một
trong những biểu hiện dễ thấy là Quốc hội và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đang
diễn ra. Hãy chỉ nói riêng cái chỉ tiêu “phấn đấu” của bà Chủ tịch Quốc hội là
“từ 25 đến 50 người ngoài Đảng” để thấy cụ thể thế nào là việc duy trì bằng
được thể chế độc Đảng. “Họ quên rằng, so với số nhân dân thì số đảng viên
chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một đảng viên. Nếu không có nhân
dân giúp thì Đảng không làm được việc gì hết”… “Cũng vì bệnh hẹp hòi mà
không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên
không làm nổi… Nếu ai nói chúng ta không có dân chủ, thì chúng ta khó chịu.
Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ thì thật có như thế”. (Hồ
Chí Minh)6
Thật có như thế, đúng!
Người ta quên mất lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chế độ ta là chế
độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi
người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Khi mọi người đã
phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền
tự do phục tùng chân lý”. Nói quên thì cũng có thể. Nhưng người ta vẫn
tìm cái phao cứu sinh ở “phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh” khi mà chế độ toàn trị độc đảng đã mất lòng dân. Vì vậy mà người
ta phải lờ đi những gì mà Hồ Chí Minh nói thẳng vào những khuyết tật tệ hại của
họ. Nếu mà họ thực sự làm theo những tư tưởng đúng đắn và tốt đẹp của Hồ Chí
Minh thì họ phủ định chính họ.
Cho nên cái “phao cứu
sinh” kia chẳng thể cứu được họ khi mà sự chuyên chính đã đẩy tới thời đoạn tàn
khốc mà vụ án Đồng Tâm là một ví dụ nóng bỏng. Họ sợ sự nổi dậy của quần chúng
khi mà họ nhận ra sự phẫn nộ của lòng dân mà điển hình là sự kiện Đồng Tâm là
điểm quy tụ nổi bật với những phản ứng dữ dội sẽ lan mạnh ra trong thời đại của
mạng Internet nối mạng toàn cầu, nên phải bằng bạo lực cực kỳ dã man để dập tắt
từ trong trứng. Họ đã nhầm.
Cuộc nổi dậy của nhân dân
Miến Điện là một ví dụ nóng bỏng. Hàng ngày, toàn thế giới nhìn thấy những cuộc
biểu tình hàng trăm ngàn người trước họng súng và xe tăng xe thiết giáp (y hệt
như xe tăng đặc chủng chống bạo loạn đã được chiếu đi chiếu lại trên màn hình
tivi “Chào mừng Đại hội Đảng XII” nhằm thị uy và răn đe quần chúng)!
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image004_thumb2.jpg
Bất chấp chế độ độc tài
quân sự cho lính bắn thẳng vào người biểu tình, máu đã chảy lênh láng trên
đường phố thủ đô Miến Điện, hàng trăm ngàn người vẫn tràn xuống đường hô to
khẩu hiệu đòi dân chủ, phản đối độc tài quân sự. Cô gái dũng cảm Kyal Sin đã
ngã xuống được biết đến với cái tên Angel, đã mặc một chiếc áo phông có dòng
chữ "Everything will be OK – Mọi việc sẽ tốt” cô đã viết
khi xuống đường hoà vào dòng người phẫn nộ với ý thức rằng, có thể cô sẽ trúng
đạn của kẻ thù. Cô gái anh hùng ấy đã nằm xuống nhưng dòng chữ trên ngực cô đã
là thông điệp sáng ngời của niềm tin mãnh liệt: bạo lực dù dã man cỡ
nào cũng không dập tắt nổi niềm tin vào chân lý và chiến thắng sẽ
thuộc về nhân dân. “Vì với chế độ độc tài quân sự, cuộc đời của
nhiều người đã bị hủy hoại… chúng tôi không cho phép thế hệ
tương lai gặp phải số phận tương tự như hiện nay”. Đó
là ý chí của người dân Miến Điện.
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image006_thumb1.jpg
Và cô gái Miến Điện Kyal
Sin đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh của chân lý trong thời
đại văn minh thế kỷ XXI vẫn còn nhiều chế độ độc tài toàn trị đang đè nặng lên
đời sống dân tộc trên nhiều quốc gia, trong đó có chế độ độc tài toàn trị của
Nguyễn Phú Trọng. Hãng tin Reuters ngày 6.3.2021 dẫn lời nhân chứng cho biết
các nhà chức trách Myanmar đã khai quật mộ, phẫu thuật và dường như đã lấy đi
một thứ gì đó từ thi thể cô Kyal Sin.
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image008_thumb1.jpg
Tin khủng khiếp đó khiến
công luận thế giới bàng hoàng giống như đã bàng hoàng trước việc cụ lão nông Lê
Đình Kình bị rạch bụng để thực hiện một ý đồ đen tối của nhà cầm quyền, và chỉ
một ngày sau (tức 10/1/2020), Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 41/QĐ-CTN truy
tặng Huân chương Chiến công hạng nhất cho ba người, trong đó gọi Thượng tá
Nguyễn Huy Thịnh là Đại tá, gọi Thiếu úy Dương Đức Hoàng Quân là Trung úy, và
gọi Trung úy Phạm Công Huy là Thượng úy, mặc dù sau
một ngày nữa (tức 11/1/2020) Bộ trưởng Bộ Công an mới ký quyết định truy thăng
ba bậc quân hàm ấy! Điều này cho thấy mọi kịch bản giết người đã được chuẩn
bị chu đáo và đã được Nguyễn Phú Trọng hạ lệnh cho thực hiện. Chế độ độc tài đã
không từ một thủ đoạn man rợ nào để giữ cho được cái ghế quyền lực đang run sợ
trước bão táp của sự phẫn nộ đang ló dạng ở chân trời. Nhưng chính sự tàn bạo
đã là ngọn lửa tôi luyện cho dũng khí và sức mạnh của người dân hiền lành mà
lời nói dõng dạc cất lên giữa phiên toà phúc thẩm vụ án Đồng Tâm của bà Bùi Thị
Nối đã ném thẳng vào mặt
Chủ toạ phiên toà bằng những câu hỏi: “Đảng có giết đảng không?” và “Tại
sao có luật pháp mà không thi hành”? Bà lặp đi
lặp lại câu hỏi ấy đến những 5 lần tại phiên toà.
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image010_thumb1.jpg
Luật sư Đặng Đình Mạnh đã
kể về cái tư thế hiên ngang của người phụ nữ có dáng vẻ lam lũ đứng lên chất
vấn Hội đồng xét xử. Thật là những câu hỏi đanh thép, cho dù chữ nghĩa của bà
không đủ giúp bà tự viết một lá đơn kháng cáo mà phải nhờ vào bạn tù tạm giam.
Và rồi chất vấn của bà Bùi Thị Nối hoàn toàn rơi vào thinh không cũng như bao
lời chất vấn khác của các luật sư cũng cùng số phận như vậy. “Chính bà
mới là người xử án… Mối hận sẽ đi vào thiên sử”, vị luật sư kết luận!
Phải trong bối cảnh này
mà bàn về cuộc bầu cử Quốc hội đang diễn ra. Trước hết hãy nhìn vào việc tiến
hành bầu các đại biểu từ cơ sở với các đơn vị bầu cử để hình thành một Quốc hội
thực hiện chức năng lập pháp nhưng không theo nguyên lý tam quyền
phân lập vốn đã là một thành tựu của văn minh mà nhân loại đạt
được, điều ấy đang được thực hiện ra sao thì mọi người có chút hiểu biết, qua
trải nghiệm thực tế, đều có thể nhận ra sự bất cập của nó.
Ba chức năng của Quốc hội
được áp dụng gần như ở hầu hết các nước phát triển và các nước đang phát triển
trên thế giới là: lập pháp, giám sát và đại
diện. Chức năng đại diện thường được coi trọng nhất, vì nó là nền tảng
để vận hành chức năng lập pháp, cũng như giám sát. Rõ ràng, câu hỏi lập pháp
cho ai, giám sát vì ai sẽ do chức năng đại diện trả lời. Khi đã xác định những
ai sẽ là đại biểu đại diện cho dân thì nhân danh ai mà được phép đưa ra “chỉ
tiêu” nói trên?
Đấy là chưa nói đến
nguyên lý “tam quyền phân lập” từng bị phỉ báng một cách ngu xuẩn
đã được báo chí trong nước và và giới truyền thông quốc tế công khai đưa ra.
BBC đưa nguyên văn bản tin thời sự của Đài truyền hình Việt Nam tối 25/2 dẫn
lời ông Trọng phát biểu phỉ báng “tam quyền phân lập” khi ông ta tới tỉnh Phú
Thọ: “Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền
phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những
quan điểm đấy, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thế là suy thoái
chứ còn gì nữa”. Quan điểm tệ hại ấy đang ngự trị trên chính
trường, áp đặt vào trong “hệ thống chính trị” từ trung ương đến
cơ sở. Hãy dừng lại ở một ví dụ về cuộc tổ chức bầu cử Quốc hội đang được triển
khai mà bà Chủ tịch đang “phấn đấu” đại biểu là người ngoài Đảng từ 25 – 50”
trên 500 đại biểu đã được dự kiến, và Mặt trận Tổ quốc được giao nhiệm
vụ hiệp thương và tổ chức lấy phiếu cử tri tại các đơn vị từ cơ sở đến trung
ương.
Với tư cách là người tham
gia vảo Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc từ đại hội III 1988 đến đầu Đại hội
VI 2013 tôi quá hiểu về cái gọi là “hiệp thương” đó nói riêng, phương thức hoạt
động của Mặt trận nói chung và cũng đã nhiều lần phát biểu công khai tại diễn
đàn Đại hội và Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận về những vấn đề trên. Tựu
chung lại, ý kiến của tôi là chừng nào Mặt trận chỉ là cánh tay nối
dài của Đảng mà không tự mình trở thành một diễn đàn thu hút mọi tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là những trí thức ngoài Đảng, để lắng nghe được tiếng nói thẳng
thắn của họ góp ý kiến xây dựng đất nước thì chừng ấy Mặt trận mới có lý do để
tồn tại và hoạt động (với chức năng đích thực của nó như thuở ban
đầu “Hội phản đế Đồng Minh” – hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống
nhất).
Để tiện cho việc trình
bày, xin dẫn ra đây một vài ý kiến trong những phát biểu của tôi tại các Đại
Hội, các Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận:
1. Chức năng
tập hợp và phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, trong có những trí thức
tâm huyết để phát huy sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc.
…Chừng nào mà thói
độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tuỳ tiện quy kết của một số
người cầm quyền tự cho mình cái “quyền” đó thì chức năng nói trên không thể
thực hiện được… Ngược dòng lịch sử, từ đầu thế kỷ thứ X, nhà cải cách đầu tiên
trong lịch sử dân tộc là Khúc Hạo đã đề xướng quan điểm “chính sự cốt
chuộng khoan dung giản dị, dân chúng đều được an vui”. Quan điểm đó là
tinh thần xuyên suốt trong nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước tiếp theo. Tinh
thần ấy đã trở thành một nhân tố quan trọng tạo nên bản sắc dân tộc, bản sắc
văn hoá Việt Nam. Triết lý dẫn dắt đường lối đại đoàn kết dân tộc của chủ tịch
Hồ Chí Minh chính là tư tưởng khoan dung đó. “Hồ Chí Minh là người khơi
dậy những tiềm năng bị chôn vùi, phát huy những sức mạnh sẵn có, làm nảy nở
những cái mới, cái hay cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con người”
(Phạm Văn Đồng). Với Hồ Chí Minh, dân tộc là điểm xuất phát của lý tưởng cách
mạng. Chúng ta chắc chưa quên lời Hồ Chí Minh nói với Huỳnh Thúc Kháng – một
nhân sĩ ngoài Đảng đang đảm nhiệm trọng trách Quyền Chủ tịch Nước – ngày
31.5.1946 trước khi lên đường sang Pháp: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Bất biến là mục tiêu, vạn
biến là giải pháp. Cái bất biến đó là lợi ích dân tộc và vạn biến là
là chọn giải pháp khả thi nhất để đạt được mục tiêu đó bao gồm cả
cố gắng tranh thủ những lực lượng nào có thể tranh thủ được nhằm thực hiện vững
chắc và lâu bền lợi ích của dân tộc trước sự biến động
khó lường của thế giới và của khu vực với vị thế địa chính trị đặc thù của nước
ta, ở sát liền với một nước lớn vốn không ngừng nuôi khát vọng bành trướng về
phía Nam. Những trải nghiệm vừa qua cho thấy chỉ có lợi ích của dân
tộc là vĩnh viễn còn những cái khác đều có thể thay đổi, kể cả việc kết bạn và
định thù. Vì vậy không một ai, không một tổ chức nào được đứng trên dân
tộc vì mọi cá nhân, mọi tổ chức đều có thể tiêu vong nhưng dân tộc thì trường
tồn.
Cho nên, theo thiển nghĩ
của tôi, vấn đề lớn đặt ra hiện nay cho Mặt trận là làm sao thực hiện chức năng
đích thực của mình là đưa lên tầm cao mới của tinh thần khoan dung để thu nhập
vào mình những ý kiến khác nhau, biết bỏ qua cái tiểu dị để trân trọng cái “đại
đồng” trong mọi con người Việt Nam dù họ đang ở đâu. Vả chăng, sự đa dạng muôn
hình muôn vẻ của các thành viên trong xã hội là nhân tố thúc đẩy sự phát triển
bởi lẽ đa dạng hoá cấu trúc là tiền đề của sự tiến hoá. Cần
lưu ý rằng “tiềm năng của một cá thể là sự phối hợp chức năng khác nhau
về hành vi và trạng thái mà người đó có” (Aristotle).
Đã đến lúc những tiếng
nói khác nhau, kể cả tiếng nói trái tai những người chỉ quen nghe những điều
mình muốn, những điều mình cho là đúng, sản phẩm tồi tệ của thói độc quyền chân
lý, áp đặt tư duy và tuỳ tiện quy kết tôi vừa nói ở trên. Trực tiếp hơn nữa là
phải trân trọng lắng nghe những ý kiến “trái tai” và tạo điều kiện cho những ý
kiến đó được dõng dạc đường hoàng nói lên, tờ báo Đại Đoàn Kết, cơ quan ngôn
luận của Mặt trận đăng công khai những ý kiến đó chứ không như hiện nay, sau
tiếng vỗ tay khích lệ thì những tiếng nói ấy được xếp vào ngăn kéo của ông Phó
Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Mặt trận để cho mối mọt phê phán.
(Phát biểu ngày 22.9.2004 tại Đại hội Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam lần thứ VI)
2. Đối thoại
thay cho độc thoại
Chúng ta vừa kỷ niệm 60
năm ngày Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của một đất nước vừa giành được
độc lập, dân chủ và tự do. Quyết định tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trong bối cảnh
nước sôi lửa bỏng khi thực dân Pháp có sự hỗ trợ của đế quốc Anh đang có mặt ở
Nam bộ, chủ yếu là ở Sài Gòn mưu toan mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trở
lại. Để thực hiện quyền dân chủ, ở Sài Gòn và một số tỉnh ở Nam Bộ, cử tri đi
bỏ phiếu dưới mũi súng của kẻ thù với ý thức “mỗi một lá phiếu cũng có
sức lực như một viên đạn”. Có lá phiếu bầu đã nhuộm máu người dân hiểu
rõ ý nghĩa của việc hưởng dụng quyền dân chủ của mình. Thì ra, bài học lịch sử
về cái giá để có được dân chủ đích thực chứ không là dân chủ lừa mỵ và bịp bợm
đang còn nóng hổi. Bài học dân chủ ấy thật không dễ học. Những tên độc tài cầm
quyền thì lại muốn quên đi.
(Khi tôi viết những dòng này thì phiên phúc thẩm
vụ án Đồng Tâm đã kết thúc với kết luận giữ nguyên mức án sơ thẩm, trong đó có hai bản án tử hình
cho các con trai của cụ Lê Đình Kình càng cho thấy rõ máu của người dân
Đồng Tâm, của gia đình người lão nông dũng cảm và đầy trí tuệ Lê Đình Kình,
người đồng tuế mà tôi đã từng gắn bó thân thiết, từng sẻ chia về ý chí và những
dự định trong sáng vì dân, vì nước. Lê Đình Kình bị bắn chết, và chết không toàn
thân, sau khi bị bắn chết, người lão nông 54 tuổi Đảng ấy đã bị các “đao phủ
đồng chí” của mình rạch bụng, một sự dã man vượt xa những sự dã man đã đánh
thức lương tri của những người đang sống, nhất là những đảng viên cộng sản. Câu
chuyện đau đớn này càng cho thấy rõ hơn những điều vừa trình bày về cái giá
phải trả cho cuộc đấu tranh giành dân chủ thật là khủng khiếp, kể cả bằng máu.)
Bài học của Đổi Mới cũng
là bài học dân chủ sống động. Đó là bước ngoặt đột phá có ý nghĩa lịch sử mà
nếu không có nó thì không có được những thành tựu về kinh tế với những bước đi
ban đầu của dân chủ hoá đời sống kinh tế và quản lý xã hội thì đất nước khó mà
thoát khỏi tình thế đứng bên bờ vực sụp đổ. Nói cách khác, đó là
thành tựu của dân chủ. Dân chủ được thực hiện được đến đâu thì thành tựu về
kinh tế, xã hội đạt được đến đó. Khi mà tư duy về dân chủ có chiều sâu
chưa được khai thông mạnh mẽ vì sức trì kéo của tập quán cũ cộng với giáo điều
và bảo thủ đang lấp kín não trạng của người cầm quyền thì kinh tế, văn hoá và
xã hội khó mà bứt lên như mong muốn với sức bật của năng lượng tiềm ẩn trong
nội lực dân tộc.
Lấy đối thoại thay
cho độc thoại, vì vậy mà là và phải
là phương thức hoạt động của Mặt trận, và cũng nên là triết
lý của Mặt trận. Mọi hoạt động của Mặt trận, nên theo triết lý đó: thực
sự lắng nghe tất cả mọi ý kiến, nguyện vọng của tất cả mọi tầng lớp nhân dân “không
phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín
ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu giữ vững độc lập thống
nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ”.
Điều này không dễ khi não
trạng đã nhão nhoét với mớ lý luận mốc thiu của giáo điều, bảo thủ. Chính vì
thế trong bài phát biểu tại Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận năm trước
13.1.2005, tôi đã thẳng thắn nêu lên sự bất bình về chuyện một vị Uỷ viên Đoàn
Chủ tịch Mặt trận [hình như là được phân công phụ trách công tác tổ chức] vi
phạm nguyên tắc dân chủ, đã tuỳ tiện sửa lại Điều lệ Mặt trận đã được Đại hội
VI biểu quyết thông qua. Ông ta đã bỏ đi ba từ “ý thức hệ” trong
câu quan trọng nhất nói về tính chất và vai trò của Mặt trận: “đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội và
dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công
cuộc Đổi Mới…”. Đáp lại lời phê bình của giáo sư Phạm Khiêm Ích và tôi,
ông ta dám biện minh rằng: “Việc sửa lại nội dung Điều lệ nói trên là
theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng và cũng không trái gì với nội dung của
Điều lệ sửa đổi đã được Đại hội VI của Mặt trận biểu quyết thông qua cả”.
Nếu không là thói cả vú lấp miệng em thì là đầu óc của ông ta không nhận thức
nổi được rằng bỏ ba chữ “ý thức hệ” đi thì không thể có sự hội tụ
đông đảo như chúng ta đang ngồi đây. Nếu không công nhận sự khác nhau về ý thức
hệ, thì các vị linh mục, các vị chức sắc của Phật giáo, các vị nhân sĩ là kiều
bào… không cùng ý thức hệ cộng sản với ông Chủ tịch Phạm Thế Duyệt, sẽ lịch sự
chào ông để nắm tay nhau nhã nhặn từ biệt ông Chủ tịch, rồi bước ra khỏi hội
trường này.
(Xin nói thêm là vào giờ
giải lao, một người quen biết – cũng có thể gọi là người bạn gần gũi “đồng sàng
dị mộng” tại Mặt trận trong nhiều năm – ghé tai tôi: “Người ta nói ông thiếu
khiêm tốn và dạy đời đấy”. Tôi trả lời rằng tôi đâu dám, nhất là các vị
trong Chủ tịch Đoàn toàn là nhưng bậc đạo cao đức trọng cả, kể cả ông ĐDT càng
đạo cao đức trọng khi ông ta là lão làng thâm niên công tác Mặt trận, nhưng về
tuổi tác thì ông ta kém tôi 7 tuổi cơ đấy. Chẳng qua là “…Quen mất nết đi
rồi, Tẻ vui, thôi cũng tính trời biết sao”. Chỉ là anh ta chưa
quen đối thoại đấy thôi. Vừa rồi, đọc danh sách Uỷ viên Đoàn Chủ tịch
của Đại hội IX Mặt trận lại thấy tên cả hai ông này. À ra thế!
Đợi ông bạn nọ đứng lên,
Phan Đình Diệu rủ tôi ra quán cà phê ngồi nhâm nhi không trở lại Hội trường
nữa. Diệu cười, “Cậu sắp được “giải phóng” rồi đấy. Người ta sẽ cho cậu
thôi không lâu nữa đâu. Mình cũng nghỉ thôi, mất thì giờ vô bổ”. Chị Hoàng
Xuân Sính vừa rời ghế Đoàn Chủ tịch đi ngang qua chỗ chúng tôi ngồi, dừng lại
vừa cười vừa nói: “Thôi xin chào các anh, tôi đào tẩu trước đây, anh Tương
Lai cố bấm bụng ngồi lại để nói thay tôi nhá, còn ông Diệu thì cân nhắc xem,
người ta đang cần cái bóng của ông thấp thoáng trên dãy ghế thứ ba của Đoàn Chủ
tịch để điểm trang đấy. Tôi thì mệt mỏi quá rồi. Mong hai anh rộng lượng bỏ qua
cho”. Chị Hoàng Xuân Sính vừa đi thì Cao Xuân Phổ sà vào nắm chặt tay tôi
khi tôi đưa ly cà phê mời anh: “Cám ơn Tương Lai đã nói thay chúng tôi”.
Cả ba ngồi trầm ngâm trước ly cà phê uống dở.)
Thưa rằng, muốn có đại
đoàn kết thật sự phải tháo gỡ thói quen độc thoại để thay bằng thói quen đối
thoại trong tư duy cũng như trong ứng xử. Sự tháo gỡ này không dễ chút nào vì
thói quen độc thoại đã thấm sâu vào não trạng của không
ít những người cầm quyền vốn chỉ thích ban phát và áp đặt chứ không muốn lắng
nghe và tiếp nhận ý kiến. Họ tự cho mình đã biết tất cả, chân lý đã có sẵn dành
cho mình. Họ không hiểu hay cố tình không hiểu rằng biết đối thoại và dám đối
thoại là vì chân lý đến từ tìm tòi, suy ngẫm, phân tích
và tiếp nhận từ dòng chảy miệt mài, liên tục của cuộc sống. Phong cách đối
thoại còn là thành tựu của tư duy hiện đại về tiến hoá. Tiến
hoá không chỉ là quá trình chắt lọc cái này và loại bỏ cái kia để vì thế mà làm
nghèo đi sự phong phú và đa dạng của cái toàn thể. Tiến hoá thực chất là đồng
tiến hoá. Tư duy hiện đại đã vượt qua sự cố chấp của nguyên
lý loại trừ mà đến với nguyên lý bổ sung…
Thưa quý vị. Tôi nói cũng
đã dài, những điều muốn nói còn dài hơn, nhưng không nên lợi dụng sự nhẫn nại
lắng nghe và sự khó chịu của những người không muốn nghe, nên xin dừng lại vói
một lời cầu chúc: năm 2006 sẽ là năm của nguyên lý bổ sung thay cho
nguyên lý loại trừ để chúng ta khỏi phải chịu đựng những tràng
độc thoại suốt ngày dài lại đến đêm thâu của sự phi lý nhân danh mọi thứ nhân
danh, chỉ không nhân danh được cho chân lý. Mong rằng chúng ta
phải giành cho được quyền đối thoại để tiếp cận với chân lý cuộc sống. Mà cuộc
sống thì mạnh hơn những giáo điều đã học thuộc lòng cho dù đám mây đen của
chúng vẫn đang còn che phủ những tia sáng của Đổi Mới.
(Phát biểu tại Hội
nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 9.1.2006)
3. Về vấn đề
Phản biện xã hội và Xã hội Dân sự
Vấn đề này tôi đã đặt ra
từ nhiều lần trước đây, nhưng hôm nay, đọc lại những báo cáo của Thường trực
Đoàn Chủ tịch tôi nghĩ cần trình bày lại kỹ hơn trong Hội nghị bàn về dự thảo
Quy chế Giám sát và Phản biện xã hội này.
Chấp
nhận có phản biện xã hội, giao cho Mặt trận thực hiện vai trò giám sát và phản biện
xã hội là một bước tiến trong tư duy của lãnh đạo Đảng trước áp lực của
đòi hỏi mạnh mẽ và bức xúc của cuộc sống. Nói cuộc sống là nói đến quy luật
phát triển của nó trong tính đa dạng muôn hình muôn vẻ, cũng là nói đến mọi
tầng lớp nhân dân đang bức xúc về thực thi dân chủ thể
hiện trong quyền làm chủ cụ thể và thiết thực của đời
sống hàng ngày từ buổi chợ đến bữa cơm, từ có việc cần đến “cửa quan” không
phải chìa ra “ba trăm lạng việc này mới xong” và thiên hình vạn trạng
những điều mà người dân nhận được trên giấy hay những lời rao giảng đã quá nhàm
tai.
Vậy thì tại sao trong Dự
thảo Quy chế của Mặt trận lại phải đưa cả ba quy chế, một của Đảng, một của
Quốc hội, một của Chính phủ, liệu có phải vẫn còn dè dặt và lúng túng trong
việc xác lập cơ sở lý luận của phản biện xã hội là
tiếng nói từ dưới lên cho nên phải chia làm ba nhưng về thực chất thì chỉ là
một, đó là triết lý của Mặt trận, điều tôi vừa trình bày ở
trên. Thời gian đã đủ để có thể cảm nhận sâu hơn về ý tưởng “con đường cũ
dừng ở đây. Thế giới đã thay đổi, kiểu tư duy tuyến tính không còn thích hợp
với một thế giới phi tuyến tính.”7
Với những thành tựu kỳ
diệu của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, nhân loại đang
chứng kiến một sức mạnh mới: Ở mọi nơi, các thứ bậc đang bị thách thức từ
bên dưới và phải tự biến đổi thành cấu trúc theo chiều
ngang và có tính cộng tác hơn chứ không chỉ theo chiều
dọc từ trên xuống. Sự thay đổi đó vừa đòi hỏi vừa tạo ra một cách nhìn
mới, cách suy nghĩ mới vế đảng cầm quyền và về quyền lực nhà nước.
Cuộc sống đang diễn ra
không hề là một chuỗi các sự kiện có liên kết với nhau theo trình tự cái
này sau cái kia mà là một chuỗi những đụng độ va đập làm
biến đổi những sự kiện tiếp theo mà kiểu tư duy tuyến tính không thể nào lường
được hết. “Những ai chần chừ tin rằng, tương lai sẽ là sự tiếp tục của
quá khứ sẽ sớm thấy bị hụt hẫng trước sự thay đổi. Họ buộc phải suy nghĩ lại:
“sẽ đi đến đâu và bằng cách nào đi đến đó khi mà đã quá muộn để tránh được điều
không thể tránh khỏi”.7
Vậy mà những người soạn
Dự thảo lại nói rất mập mờ: “Chủ thể phản biện là nhân dân, nhưng nhân
dân ở đây là nhân dân có tổ chức, do vậy…”. Còn về giám sát thì càng
mập mờ lúng túng hơn: “phải làm rõ giám sát ở đây là giám sát mang tính
nhân dân chứ không mang tính quyền lực”. Quả là người soạn Dự thảo đã
chưa có đủ tri thức về “quyền lực”. Họ quên rằng “quyền hành và lực lượng
nơi dân”, đó là điều Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay từ khi nhà nước Dân
chủ Cộng hoà còn trong trứng nước, năm 1947! Khi Hiến pháp xác định “Quốc hội
là Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” thì cần hiểu rằng đó là quyền lực của
dân trao cho. Cao nhất không phải là tất cả, không phải
là toàn bộ. Chỉ nhân dân mới có cái toàn bộ đó theo nguyên lý: “Quyền
hành và lực lượng đều nơi dân” như đã dẫn ở trên.
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image012_thumb1.jpg
Cho nên, làm thế nào để
trao quyền mà không mất quyền, đó là một vấn đề cực kỳ nan giải mà những bộ óc
lớn của loài người từng suy ngẫm, tìm tòi nhằm xây dựng những cơ chế tối ưu cho
việc thực hiện việc trao quyền nhưng không mất quyền, nhưng
xem ra cơ chế khả dĩ gọi là tối ưu đó vẫn chỉ mới tạm dừng lại ở nguyên lý “tam
quyền phân lập” với sự khởi xướng của Montesquieu, nhà Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII. Đã thế, chuyện trao quyền và mất quyền ở ta còn nặng nề hơn vì cơ chế
“tam quyền phân lập” – một thành tựu của văn minh nhân loại – lại bị kỳ thị như
đã trình bày nên câu chuyện cực kỳ nan giải nói trên càng thêm bội phần lúng
túng cho những người soạn thảo Dự thảo Quy chế!
Lúng túng và bối rối hơn
khi Dự thảo Quy chế viết “Chỉ phản biện xã hội đối với dự thảo đường lối
chính sách, dự án chương trình, đề án về tổ chức cán bộ, dự thảo, dự án văn bản
pháp luật” với lập luận rằng “Khi các dự thảo dự án, đề án được
ban hành thì chỉ giám sát việc thực hiện cho tốt mà không phản biện nữa. Như
vậy mới không trái với nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và Nhà nước”.
Nếu vậy thì quả thật họ không hiểu được thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý, bài học vỡ lòng ấy chẳng nhẽ không còn đúng nữa sao.
Trong cuộc đời thực có cơ
man những chủ trương, giải pháp qua sự vận động thực tiễn đã thấy rõ là sai
lầm, thậm chí là có thể đẩy đất nước đứng bên bờ vực của sự sụp đổ. Sự lo sợ
phải mất quyền lực, vẫn bị cái bóng ma của “chuyên chính vô sản”
ám ảnh, quen chuyên chính mà không đếm xỉa đến những tiếng dội từ cuộc sống qua
tiếng nói của dân đã từng phải trả cái giá rất đắt. Đại đa số nhân dân đã phải
còng lưng dưới sự chuyên chính nhưng không dám nói ra vì những tấm gương tày
liếp của những người dám nói lên một phần sự thật đã bị đàn áp như thế nào, còn
in đậm trong đầu óc họ. Sự đàn áp ấy sẽ càng tăng lên khi nhà cầm quyền thấy ra
sự nguy hiểm của sự phẫn nộ bị dồn nén.
Sự cảnh báo của nhà Khai
sáng Pháp thế kỷ XVIII vẫn còn nguyên vẹn giá trị: “Nhân dân cần được soi
sáng. Đó là điều ta chớ thờ ơ. Những định kiến của các nhà cầm quyền thường bắt
đầu là định kiến của dân tộc. Thời còn dốt nát, người ta chẳng hoài nghi gì,
ngay cả khi người ta làm điều bậy bạ nhất. Đến thời sáng suốt người ta còn run
lên khi làm điều tốt đẹp nhất”. Nếu cần nói thêm thì đó là điều mà thế
kỷ XVIII chưa có: “sự phá huỷ sáng tạo”. Mạng Internet là một
biểu trưng chuẩn mực của nền kinh tế số mà người ta dùng hình ảnh này để nói về
sự diễn tiến của nó. Bởi lẽ một hệ thống mạng phức hợp nếu dừng mãi ở trạng
thái cân bằng và ổn định sẽ là nguy cơ đẩy tới sự đình đốn và suy thoái. Luôn
luôn phải tìm kiếm sự mất cân bằng trong phát triển, đó là
một đặc trưng của nền kinh tế số. Hơn nữa, trong nền văn minh trí tuệ và nền
kinh tế tri thức của thế kỷ XXI này thì đó không chỉ là đặc trưng riêng của
kinh tế số. Điều đó buộc chúng ta phải nhìn cho ra sự biến đổi chính
là một hằng số trong thế giới mà chúng ta đang sống. Vì vậy mà có
lẽ cần phải suy ngẫm về khái niệm: “chuẩn mực chính là sự thay đổi ”!7
4. Về xã hội
dân sự
Nói phản biện xã hội
nhưng “Dự thảo Quy chế” không hề đả động gì – đúng hơn là né tránh – xã
hội dân sự! Nhưng chính đó lại là vấn đề quan trọng của phát triển
trong thời đại mới với việc xây dựng nhà nước pháp quyền đích thực gắn
liền với xã hội dân sự như bóng với hình. Không
có xã hội dân sự sẽ không có phản biện xã
hội như chúng ta mong muốn.
Bởi lẽ, để Mặt trận làm
tốt chức năng phản biện xã hội đúng nghĩa thì phải chăng là trước hết phải khắc
phục dần để đi đến loại bỏ tình trạng “Nhà nước hoá Mặt
trận” như hiện nay. Cái gọi là nhà nước hoá đó là thể hiện mối “liên
kết dọc” như đã đề cập ở trên với cơ cấu tổ chức, phương thức điều
hành, kể cả kinh phí hoạt động. “Nhà nước hoá” tất nhiên phải đi
liền với “hành chính hoá”. Điều này sẽ tước bỏ hoặc chí ít là làm
nghèo nàn nội dung xã hội của sự tự quản trong tinh thần tự nguyện với tính đa
dạng cực kỳ phong phú, nhiều chiều cạnh của các tầng lớp, các nhóm xã hội, các
cá nhân. Họ có những lợi ích riêng biệt không hoàn toàn đồng nhất với nhau
những đòi hỏi không ai giống ai, nhưng vì mục tiêu chung mà cùng liên kết, hợp
tác và cạnh tranh với nhau tạo thành một hợp lực thúc
đẩy sự phát triển.
Tính đa dạng và phong phú
đó tạo thành mạng lưới xã hội trong mối liên kết ngang các
“cấu trúc mạng” hàm chứa ý chí và nguyện vọng của nhân dân thể
hiện trong xã hội dân sự. Có thể nói rằng chất lượng
của phản biện và giám sát của Mặt trận tuỳ thuộc vào sự
thúc đẩy và phát triển xã hội dân sự. Nếu không thế thì
trong nhiều tình huống sẽ rơi vào tình trạng tập hợp lại những người đã là tác
giả hoặc góp phần vào việc hoạch định những chủ trương chính sách ngồi lại dưới
cái ô của Mặt trận để phản biện chính những tác phẩm của chính mình.
Không bứt khỏi những
đường mòn có sẵn, mời người giám sát và phản biện theo cách nhàm chán “quanh
quẩn mãi chỉ vài ba dáng điệu, tới hay lui cũng ngần ấy mặt người”, rất
lãng phí thời gian và công của được lấy từ tiền thuế của dân. Ấy thế mà “giải
phóng chính trị là quy con người thành thành viên của xã hội dân sự”,
cho nên, “con người với tư cách thành viên xã hội dân sự có nghĩa là con
người theo đúng nghĩa của nó”. (K. Marx)
(Phát
biểu tại Hội nghị Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 19.8.2008
bàn Dự thảo Quy chế Giám sát và Phản biện xã hội)
Trên đây là những vấn đề
trích từ những phát biểu của tôi cách nay đã gần 20 năm. Có những vấn đề đặt ra
từ buổi ấy nay xem ra đã phần nào lạc hậu vì dòng sông của cuộc sống cuồn cuộn
chảy qua bao nhiêu thác ghềnh với bao biến động dữ dội và đầy bất ngờ. Nhưng
điều không bất ngờ là cái quy luật của quyền lực mà từ
thế kỷ 19 Lord Acton đúc kết thì ngày càng được đẩy tới một cách tàn nhẫn trong
gần 20 năm qua mà mới đây sự kiện Đồng Tâm là một vết đen ghê tởm trong lịch sử
cầm quyền của chế độ toàn trị phản dân chủ. Dù sao thì những phát biểu ấy cũng
giúp minh hoạ thêm những điều tôi đã trình bày ở trên. Những gì đã trình bày
cũng chỉ những nét chấm phá của một bức tranh toàn cảnh về chuyện tôi muốn
trình bày tại sao chẳng cần phải phấn đấu làm chi cho mệt về
cái chỉ tiêu đưa một số người ngoài Đảng vào Quốc hội để làm cảnh. Cái đó đã
được an bài từ chỉ thị của Đảng. Xem ra điều mà ai cũng biết, họ mượn hình
tượng Hồ Chí Minh chỉ để làm “phao cứu sinh”, nhưng không dám thực hiện tư
tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền: “Họ quên rằng, so với số nhân
dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu… không biết dùng nhân tài, việc gì
cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên không làm nổi”.
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image018_thumb.jpg
Họ phải ôm, vì quyền
lực đẻ ra sở hữu, đó là sự đúc kết của Max Weber, nhà xã hội học lớn
nửa sau thế kỷ 19 – nửa đầu thế kỷ 20. Cứ xem phần lớn các nhà cầm quyền Việt
Nam có ai chịu ở một căn hộ tầm thường, tự phục vụ mà không cần người giúp việc
như bà Merkel, 18 năm làm Thủ tướng của nước Đức, người đứng đầu
danh sách 100 phụ nữ nhiều quyền lực nhất thế giới theo bình chọn
của tạp chí Forbes năm 2006, và giữ vị trí này trong 13 năm tiếp sau đó. Năm
2015, bà được tạp chí Time bầu chọn là nhân vật của năm. Và thật quá hiếm quan
chức Việt Nam nào chịu sống giản dị trong một ngôi nhà nhỏ bình dị như ông Thủ
tướng Nhật
Tomiichi Murayama đạp xe đi chợ mua thực phẩm giúp vợ! Thế thì những “biệt
phủ”, những “biệt thự” và những tiện nghi sang trọng khác từ đâu mà có? Bất cứ
người dân thường nào cũng có thể trả lời. Vậy thì hãy bớt đi cho những lời rao
giảng về đạo đức, về lập trường quan điểm, về “nhà nước của dân, do dân và vì dân”!
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image016_thumb.jpg
Khó lắm thay, xin hãy
nhìn biệt thự của một vị Thứ trưởng Việt Nam để hiểu cái khó của việc rời bỏ
cái ghế quyền lực trong một thể chế mà cái bóng ma “chuyên chính vô sản”
đã nhập vào hình hài mới là “chuyên chính của người cầm quyền”
trong một nhà nước chuyên chế độc Đảng. Với cái hình hài ấy thì “cái lồng quyền
lực” không thể nhốt họ vào được, bởi lẽ, tham vọng quyền lực của người tạo ra
cái lồng đó để định nhốt họ vào lại đứng đầu bảng về tham nhũng quyền lực. Thế
là huề cả làng!
Tôi nói “phấn đấu
làm chi cho mệt” là vì vậy.
Hình : http://vanviet.info/wp-content/uploads/2021/03/clip_image014_thumb.jpg
Chú thích:
1. Ði-a-côp,
Xớc-kin, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, NXB Sự
Thật, Hà Nội, 1960.
2. Chống các biểu hiện cơ
hội, tham vọng quyền lực, vận động cá nhân, cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm.
“Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại
hội 13 của Đảng”. Trang Thông tin điện tử Ban Nội chính Trung ương.
3. Tạp chí Xây dựng Đảng,
6.3 2021
4. Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
5. Việt Phương, Bài trình
bày tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Hội đồng Lý luận Trung ương.
6. Hồ Chí Minh, “Sửa đổi
lề lối làm việc”. Hồ Chí Minh toàn tập, t.5, tr.278 và 283.
7. Thomas
L.Friedman, Thế giới phẳng. NXB Trẻ, 2014.
Ngày
10.3.2021
No comments:
Post a Comment