‘Nước
Mỹ đã trở lại,’ ưu tiên cho nhân quyền hay lợi ích?
Hiếu Chân/Người Việt
Mar 2, 2021
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/nuoc-my-da-tro-lai-uu-tien-cho-nhan-quyen-hay-loi-ich/
Đúng như mong ước của những người yêu chuộng tự do
và hòa bình trên khắp thế giới “Nước Mỹ đã trở lại” sau bốn năm tự cô lập dưới
thời cựu Tổng Thống Donald Trump. “Hôm nay tôi phát biểu với tư cách tổng
thống Hoa Kỳ ngay buổi đầu chính quyền của mình và tôi gửi một thông điệp rõ
ràng đến thế giới: Nước Mỹ đã trở lại,” Tổng Thống Joe Biden mở đầu bài
diễn văn tại Hội Nghị An Ninh Quốc Tế Hamburg cuối tháng trước.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/03/A1-Nuoc-My-da-tro-lai-1-1536x1024.jpg
Chính phủ Biden đã tạm ngưng để duyệt xét lại
hợp đồng bán phi cơ F-35 ký dưới thời ông Trump, ngừng cung cấp tất cả các loại
vũ khí sát thương cho Saudi Arabia, vì Hoàng Tử Mohammed bin Salman ra lệnh
giết nhà báo Jamal Khashoggi. Trong hình, ông Joe Biden (phải) trong một chuyến
công du Saudi Arabia năm 2011 thời làm phó tổng thống. (Hình minh họa: AP
Photo/Hassan Ammar)
“Nước Mỹ đã trở lại” không chỉ để tái lập tư thế
lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ thông qua nỗ lực liên minh với các đồng minh và
đối tác thành một mặt trận để chống các nhà nước độc tài; đề cao dân chủ, tự
do, nhân quyền như một hệ giá trị chung để xác định đâu là thù đâu là bạn.
Nhưng thế giới đã thay đổi rất nhiều trong bốn năm qua, và sự trở lại của Hoa
Kỳ ngay lập tức bị thách thức với rất nhiều trở ngại, buộc Tổng Thống Biden
phải điều chỉnh những cam kết mà ông đưa ra trong thời gian tranh cử.
Tổng Thống Biden sẽ điều chỉnh như thế nào, sẽ đối
phó ra sao với những thủ đoạn và điều đó sẽ tác động như thế nào tới quan hệ
giữa Mỹ với Việt Nam trong tương lai?
Thách thức từ các quốc gia thù địch
Không khó nhận ra phần lớn thách thức đặt ra cho
chính quyền Biden là từ những đối thủ cạnh tranh, từ các nhà nước độc tài đã
mạnh lên trong mấy năm qua: Nga, Iran, Trung Quốc, nhưng cũng có những biến
động ở các nước đối tác mà Hoa Kỳ đang muốn lôi kéo vào liên minh của mình.
Nước Nga đã có nhiều hành động thù nghịch chống Hoa
Kỳ nhiều năm qua từ việc can thiệp vào các cuộc bầu cử của Mỹ, tấn công điện
toán vào các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp lớn của Mỹ hoặc mưu sát nhà đấu
tranh đối lập Alexei Navalny, nhưng hầu hết đều được chính quyền Trump bỏ qua.
Ngay sau khi ông Biden lên nhậm chức, Moscow đã bắt
ông Navalny trở lại nhà tù – sau khi ông này thoát chết khỏi một vụ đầu độc nhờ
sự cứu chữa của các bác sĩ Đức – bất chấp những cuộc biểu tình phản đối của
hàng ngàn người Nga ở gần một trăm thành phố Nga. Mãi đến hôm Thứ Ba, 2 Tháng
Ba, chính phủ Biden mới công bố trừng phạt các giới chức chính quyền Nga và 14
công ty nhà nước liên hệ đến một vụ đầu độc ông Alexei Navalny bằng chất hóa
học. Vẫn chưa rõ Washington sẽ làm gì tiếp theo để trả đũa vụ tấn công điện
toán vào công ty SolarWinds ở Texas, mở đường thâm nhập hệ thống máy tính của
nhiều cơ quan chính quyền và doanh nghiệp Mỹ mà các cuộc điều tra đều chỉ ra
thủ phạm là cơ quan tình báo quân sự Nga.
Tổng Thống Biden đã quyết định quay trở lại Hiệp
Định P5+1 về kiểm soát chương trình nguyên tử của Iran, ký kết dưới thời chính
quyền Obama-Biden và ông Trump đã rút ra hồi năm 2017, với điều kiện Iran phải
quay trở lại thực hiện những cam kết của Tehran như thời trước năm 2015. Lúc
đầu, Iran có vẻ ưng thuận nối lại đàm phán trực tiếp với Hoa Kỳ theo đề nghị
của Liên Âu; nhưng sau vụ quân đội Mỹ ném bom căn cứ của các nhóm vũ trang Hồi
Giáo do Iran hậu thuẫn ở miền Bắc Syria mới đây, chính quyền Iran đã đổi ý,
không chịu đàm phán nữa. Giải quyết vấn đề nguyên tử của Iran như thế nào vẫn
sẽ là cơn nhức đầu của Hoa Kỳ nhiều tháng năm sắp tới.
Trung Quốc ảo tưởng rằng chính quyền Biden sẽ mềm
dẻo hơn với Bắc Kinh, sẽ cần sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết các vấn
nạn lớn của thế giới như đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu và chương trình vũ
khí nguyên tử của Bắc Hàn. Thực hiện phương châm “tiên hạ thủ vi cường” trong
sách binh pháp Tôn Tử, Bắc Kinh đã nhanh chóng đẩy mạnh đe dọa Đài Loan, truy
quét và đàn áp các chính trị gia đối lập của Hồng Kông, ban bố luật cho phép
cảnh sát biển “nổ súng” tấn công tàu bè nước ngoài trong các vùng biển mà Bắc
Kinh tuyên bố chủ quyền và thực hiện tập trận hải quân dài ngày trên Biển Đông.
Các động tác này xảy ra dồn dập ngay sau ngày ông Biden nhậm chức không có mục
tiêu gì khác hơn là thăm dò phản ứng của chính phủ mới của Mỹ.
Việc các đối thủ cạnh tranh chiến lược tận dụng
thời điểm chính phủ Biden mới tiếp quản quyền lực và phải tập trung ứng phó với
nhiều vấn nạn lớn ở trong nước để liên tiếp ra đòn nắn gân Hoa Kỳ không phải là
chuyện lạ. Và cũng không có gì đáng lo vì cho dù Hoa Kỳ có thay đổi sự lãnh đạo
cấp cao thì các định chế dân chủ của quốc gia này vẫn thực hiện chức trách của
họ một cách tỉnh táo; quân đội Mỹ chẳng hạn, vẫn tiếp tục các cuộc hành quân
bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông và eo biển Đài Loan giữa lúc Trung Quốc gia
tăng dọa nạt; mẫu hạm Theodore Roosevelt vào Biển Đông tập trận chỉ hai ngày
sau lễ nhậm chức của Tổng Thống Biden là một ví dụ.
Vấn đề trở nên phức tạp hơn ở các quốc gia là đồng
minh của Hoa Kỳ, hoặc là các nước đối tác đang trong tiến trình chuyển hóa từ
độc tài sang dân chủ mà Mỹ đang muốn kết liên minh. Saudi Arabia, Miến Điện và
Việt Nam là những trường hợp đáng suy ngẫm.
Câu chuyện Saudi
Arabia
Saudi Arabia – quốc gia sản xuất nhiều dầu mỏ nhất
thế giới, nước lớn nhất và giàu có nhất vùng Vịnh Ba Tư, là một đồng minh số
một của Washington trong cuộc đối đầu với Iran, nhất là từ sau khi Iran làm
cuộc đảo chính năm 1979, thiết lập nhà nước thần quyền trong đó quyền lực tập
trung vào tay các giáo sĩ Hồi Giáo dòng Shiite. Nếu Iran là “giáo chủ” của dòng
Shiite thì Saudi Arabia là thủ lãnh của dòng Hồi Giáo Sunni đối nghịch; sự đối
lập về ý thức hệ tôn giáo với Iran đã khiến Saudi trở thành một đồng minh tự nhiên
của Hoa Kỳ và phương Tây – một mối liên hệ được củng cố bằng những quan hệ
thương mại, đầu tư rất chặt chẽ.
Saudi Arabia từ lâu đã có nhiều tai tiếng về nhân
quyền trong việc đối xử với phụ nữ, và đàn áp tàn bạo những người bất đồng
chính kiến với vương triều al-Saud cầm quyền. Khi Hoàng Thái Tử Mohammed bin
Salman được chỉ định làm người thừa kế ngai vàng của Quốc Vương Salman bin
Abdulaziz Al Saud – thực tế là người lãnh đạo nhà nước Saudi Arabia thay mặt
quốc vương đã 85 tuổi – thì tình hình càng tồi tệ. Ông hoàng 35 tuổi Mohammed
bin Salman, thường gọi là MBS, hứa hẹn thay đổi cơ cấu kinh tế Saudi, phát
triển công nghiệp và giảm phụ thuộc vào các mỏ dầu, nhưng cai trị bằng bàn tay
sắt và đặc biệt tàn bạo với giới đấu tranh nhân quyền và các đối thủ chính trị.
Tháng Mười, 2018, tình báo Saudi Arabia bí mật ám
sát và phanh thây nhà báo Jamal Khashoggi – một người chống đối hoàng tử MBS,
phải sống lưu vong ở Hoa Kỳ và là bỉnh bút của tờ Washington Post khi ông này
đến lãnh sự quán Saudi Arabia ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, theo giấy hẹn để làm thủ
tục kết hôn. Vụ giết hại nhà báo Khashoggi gây chấn động thế giới nhưng phương
Tây và Hoa Kỳ không có biện pháp trừng phạt thích đáng.
Ngược lại, dưới thời ông Trump, Saudi Arabia còn
được Hoa Kỳ hậu thuẫn mạnh mẽ, kể cả khi nước này phát động cuộc chiến tranh ở
Yemen chống quân nổi dậy Houthi và gây ra một thảm họa nhân đạo trầm trọng nhất
thế giới. Trong những ngày cầm quyền cuối cùng, ông Trump còn ký sắc lệnh bán
cho Saudi Arabia 50 chiến đấu cơ tàng hình F-35 mà không thông qua Quốc Hội,
sau khi đã cung cấp cho nước này nhiều loại vũ khí tối tân trị giá nhiều tỷ đô
la dù bị thế giới phản đối vì Riyadh đã dùng vũ khí do Hoa Kỳ cung cấp để tiến
hành chiến tranh ở Yemen.
Tổng Thống Trump có lần nhấn mạnh rằng mối liên
minh về an ninh Hoa Kỳ-Saudi Arabia và lợi ích của việc Saudi mua nhiều vũ khí
của Hoa Kỳ thì quan trọng hơn việc truy cứu tội lỗi của một nhà lãnh đạo hàng
đầu vương quốc. “Chúng ta có một đồng minh, và tôi muốn gắn bó với đồng minh
ấy, mà về nhiều phương diện là một đồng minh rất tốt,” ông Trump nói trên đài
Fox News sau khi công luận Hoa Kỳ bày tỏ sự phẫn nộ với vụ mưu sát một nhà báo
làm việc cho một tổ chức truyền thông Mỹ.
Tổng Thống Biden đã đảo ngược một phần chính sách
của ông Trump trong quan hệ với Saudi Arabia. Đến nay, chính phủ Biden đã tạm
ngưng để duyệt xét lại hợp đồng bán phi cơ F-35 ký dưới thời ông Trump, ngừng
cung cấp tất cả các loại vũ khí sát thương cho Saudi Arabia. Bản kết luận tình
báo về vụ nhà báo Khashoggi, trong đó ghi nhận Hoàng Thái Tử MBS là người phê
chuẩn hành động tàn ác đó, cũng được chính phủ cho giải mật và ngay sau đó Tòa
Bạch Ốc công bố cấm vận cựu phó giám đốc tình báo Ahmad Hassan Mohammed al
Asiri của Saudi và cấm nhập cảnh 76 công dân nước này.
Tuy vậy, chính phủ Biden đã không có động tác trừng
phạt nào đối với Hoàng Thái Tử MBS dù trong thời gian tranh cử ông Biden đã lên
án mạnh mẽ vụ ám sát và nói sẽ buộc ông MBS phải chịu trách nhiệm. Nhiều dân cử
trong Quốc Hội Mỹ, các tổ chức nhân quyền quốc tế đã chỉ trích hành động “yếu
ớt” của chính quyền Biden, đòi Hoa Kỳ phải trừng phạt ông MBS tương xứng với
tội lỗi của ông ta thay vì chỉ cấm vận các quan chức thừa hành.
“Thay vì cấm vận MBS, có vẻ như ông Biden sẵn sàng
để cho kẻ giết người được trắng án. Thông điệp cho các nhà độc tài sát nhân là:
Đừng giết người, nhưng chúng tôi vẫn sẽ hợp tác với quý vị nếu chúng tôi phải
làm như vậy,” bình luận viên Nicholas Kristof viết trên The New York Times.
“Không có hành động chống lại hoàng thái tử phát đi một thông điệp rõ ràng ra
toàn thế giới rằng những kẻ chóp bu có thể thoát khỏi hậu quả. Khi chúng ta tạo
biệt lệ cho các đồng minh trong những tình huống như thế này, chúng ta nói với
thế giới rằng hệ giá trị của chúng ta tùy thuộc vào quan hệ của chúng ta. Chúng
ta thể hiện cho các nước như Nga và Trung Quốc thấy chúng ta có kết án nhưng
hậu quả thì chưa chắc,” Dân Biểu Andy Kim (Dân Chủ-New Jersey) viết trên
Twitter.
Giải quyết mâu thuẫn giữa việc trừng phạt kẻ chủ
mưu tội ác và duy trì mối quan hệ đối tác Mỹ-Saudi không phải là chuyện dễ và
chính quyền Biden đã chọn quan hệ thay vì thực thi công lý và đề cao các giá
trị nhân quyền. Ngoại Trưởng Mỹ Antony Blinken nói rõ: “Mối quan hệ với Saudi
Arabia thì lớn hơn bất kỳ cá nhân nào.”
Trình bày dài dòng như trên để thấy rằng các chính
phủ hành động theo lợi ích của quốc gia họ. Trên truyền thông và trong các cuộc
vận động tranh cử, các chính trị gia có thể đưa ra nhiều lời cam kết về tự do,
dân chủ, nhân quyền nhưng khi phải xử lý những tình huống cụ thể trong thực tiễn
chính trị, đa phần họ đều hành động theo lợi ích mà bỏ qua các giá trị và
nguyên tắc dân chủ. Trong câu chuyện Saudi Arabia, lợi ích mà Hoa Kỳ nhận được
từ Saudi Arabia trong cuộc đối đầu với Iran thì quan trọng hơn là việc thực thi
công lý cho một nhà báo.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/03/A1-Nuoc-My-da-tro-lai-2-1536x1024.jpg
Khi quân đội Miến làm đảo chính, bắt giam các
nhà lãnh đạo chính phủ dân sự Miến Điện, Hoa Kỳ là nước đầu tiên lên tiếng phản
đối mạnh mẽ, ban hành cấm vận các tướng lĩnh cầm đầu đảo chính và đóng băng tài
sản của Miến Điện tại Mỹ. Trong hình, người biểu tình ở Miến Điện phản đối đảo
chính ở Mandalay, Miến Điện, hôm Thứ Hai, 1 Tháng Ba, 2021. (Hình minh họa: AP
Photo)
Miến Điện: lựa chọn nào cho Hoa Kỳ?
Tuy chưa phải là đồng minh thân thiết của Mỹ như
Saudi Arabia, các nước Miến Điện và Việt Nam đã nằm trong tầm ngắm của
Washington như là những đối tác cần lôi kéo trong cuộc xung đột địa chính trị
với Trung Quốc. Cuộc đảo chính quân sự ở Miến Điện ngày 1 Tháng Hai vừa qua đặt
Hoa Kỳ vào một tình thế rất khó xử.
Sự kiện Miến Điện chuyển từ chế độ quân phiệt sang
chính quyền dân sự năm 2011 tuy không do Hoa Kỳ tác động trực tiếp nhưng những
chính sách cấm vận kinh tế trước chuyển hóa, và những biện pháp hỗ trợ sau
chuyển hóa của Miến Điện – hoặc trực tiếp do Washington thực hiện, hoặc qua các
định chế quốc tế mà Hoa Kỳ cầm chịch như Ngân Hàng Thế Giới (WB), Quỹ Tiền Tệ
Quốc Tế (IMF) – đã có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng dân chủ ở
Miến Điện suốt 10 năm qua. Vì lẽ đó, khi quân đội Miến làm đảo chính, bắt giam
các nhà lãnh đạo chính phủ dân sự Miến Điện, Hoa Kỳ là nước đầu tiên lên tiếng
phản đối mạnh mẽ, sau đó là nước đầu tiên ban hành cấm vận các tướng lĩnh cầm
đầu đảo chính và đóng băng tài sản của Miến Điện tại Mỹ.
Chưa hết, trong những ngày tới Washington sẽ tiếp
tục có các biện pháp trừng phạt nặng, nhất là sau khi quân đội dùng vũ lực đàn
áp người biểu tình, gây thương vong cho hàng chục người dân phản đối đảo chính.
Cái khó của Washington là ở chỗ, làm sao buộc được giới chức cầm đầu quân đội
nước này phải nhượng bộ, tái lập nền dân chủ non trẻ của Miến Điện mà không đẩy
nước này lún sâu hơn vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh, phá vỡ chiến lược “liên
minh” mà chính phủ Joe Biden đang ấp ủ.
Có người nhận định rằng, một khi các biện pháp
ngoại giao thất bại, Hoa Kỳ sẽ tính tới giải pháp quân sự, nhưng chúng tôi nghĩ
rằng lựa chọn đó sẽ không xảy ra. Ngoại Trưởng Antony Blinken nói “Hoa Kỳ sát
cánh cùng nhân dân Myanmar,” nhưng cụ thể sát cánh như thế nào thì chưa thấy
ông nói đến. Có thể các nhà hoạch định chính sách ở Washington đang cân nhắc
giữa việc lôi kéo Miến Điện vào liên minh chống Trung Quốc cùng với các quốc
gia Đông Nam Á và việc phục hồi dân chủ theo khát vọng của người dân Miến.
Nếu xu thế “lôi kéo” trội hơn thì không loại trừ
khả năng Washington sẽ có phương thức hòa giải với tập đoàn quân sự Miến Điện,
vừa tìm cách hạn chế ách cai trị tàn bạo của họ vừa hạn chế ảnh hưởng của Bắc
Kinh. Còn trong trường hợp phong trào đấu tranh của người dân Miến Điện nổi lên
mạnh mẽ và bền vững, áp lực quốc tế từ Hoa Kỳ và phương Tây căng thẳng tới mức
tập đoàn quân phiệt cuối cùng phải nhượng bộ thì đó là may mắn hiếm có cho đất
nước này. Dù thế nào thì sự nghiệp dân chủ, tự do của người dân Miến Điện cũng
đang trải qua những cơn sóng dữ và có thể sẽ tiêu tốn thêm nhiều máu và nước
mắt.
Việt Nam trông đợi gì?
Việt Nam vừa là “láng giềng thân thiết” với Trung
Quốc vì cùng thể chế độc tài toàn trị, vừa là kẻ đối địch trong vấn đề tranh
chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam vừa có lợi ích chiến
lược gần gũi với Hoa Kỳ chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc, vừa là một nước
“cần theo dõi” vì “thành tích” đàn áp tàn bạo khát vọng tự do dân chủ của người
dân.
Tuy Việt Nam cố “đu dây” giữa Trung Quốc và Mỹ,
nhưng quan hệ song phương với Trung Quốc là quan trọng nhất. Theo nhận định của
Cơ Quan Nghiên Cứu Quốc Hội Mỹ, nhịp độ và mức độ của sự tiến triển quan hệ
song phương Việt-Mỹ vẫn bị giới hạn vì ba lý do chính: Một là, Việt Nam chỉ
thực hiện các bước ngoại giao lớn với Mỹ sau khi xác định được phản ứng của
Trung Quốc. Hai là, mặc dù các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy người dân Việt Nam có
thiện cảm với Mỹ, giới chức Việt Nam vẫn hoài nghi mục tiêu lâu dài của
Washington là chấm dứt sự lãnh đạo độc quyền của đảng CSVN bằng phương thức
“diễn tiến hòa bình.” Và cuối cùng, quan tâm của Mỹ về hồ sơ nhân quyền Việt
Nam bị xuống dốc trầm trọng trong mấy năm qua, vẫn còn là một trở ngại trong
việc gia tăng hơn nữa quan hệ giữa Hà Nội và Washington.
Xử trí một đối tác như vậy đòi hỏi Washington phải
linh hoạt, và đã có nhiều giai đoạn mối quan tâm của Hoa Kỳ về tình hình nhân
quyền của Việt Nam đã bị tạm gác lại, nhường ưu tiên cho các quan hệ mang tính
địa chiến lược và thương mại. Bốn năm thời Tổng Thống Donald Trump là một giai
đoạn như vậy: quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam tiến triển mạnh, nhưng Washington
cũng im lặng hoặc chỉ phản ứng chiếu lệ với những hành động vi phạm nhân quyền
trắng trợn của Hà Nội. Và cũng trong giai đoạn này, Việt Nam gần như liên tục
nhượng bộ Trung Quốc ở các dự án khai thác dầu khí trên Biển Đông, xây dựng nhà
máy nhiệt điện than từ Nam chí Bắc và nhà nhà cầm quyền thẳng tay đàn áp những
người bất đồng chính kiến mà không phải e ngại.
Đã có dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng Thống
Joe Biden sẽ tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam như dưới thời Trump trong
chiến lược hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Ngoại Trưởng Blinken đã gọi điện
thoại cho Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao CSVN Phạm Bình Minh, hứa hẹn
đẩy mạnh hợp tác và hẹn nhau “ăn phở” ở Hà Nội. Từ trường hợp của Saudi Arabia
và Miến Điện nói trên có thể khẳng định, Hoa Kỳ có thể sẽ không ưu tiên cho vấn
đề tự do, nhân quyền của Việt Nam và đây là lựa chọn dễ hiểu.
Theo quan điểm của Washington đối phó với Trung
Quốc vẫn là ưu tiên cao hơn so với dân chủ hóa thể chế chính trị của Việt Nam.
Vả lại, Việt Nam chưa có một phong trào đấu tranh chống độc tài sâu rộng như
Miến Điện, chưa có một tổ chức chính trị đối lập nào ở trong nước được dân
chúng ủng hộ như Liên Đoàn Dân Tộc Vì Dân Chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi nên
Hoa Kỳ dù muốn cũng chưa thể hỗ trợ tích cực cho công cuộc dân chủ hóa Việt
Nam.
Phân tích như vậy để thấy rằng, dù chính quyền
Biden và đảng Dân Chủ đề cao các giá trị tự do dân chủ như là nền tảng để thiết
lập quan hệ đồng minh trong cuộc chiến ý thức hệ chống độc tài toàn trị, cuộc
đấu tranh để giải thể chế độ cộng sản, tái lập dân chủ vẫn là công việc của
người dân Việt Nam, sự hỗ trợ của Hoa Kỳ cho phong trào dân chủ Việt Nam sẽ
không mạnh mẽ, không có nhiều tác động như thời Obama trở về trước. Và không
thể trách cứ Washington về điều đó. [qd]
No comments:
Post a Comment