Angela Kökritz
Phạm Hồng-Lam dịch
Posted on February 16, 2021
http://dcvonline.net/2021/02/16/phia-ben-kia-duong-110/
Black Lives Matter trước
đây 100 năm: Cuộc phục hưng ở Harlem, khu phố phía bắc Manhattan, là một hạt mầm
cho phong trào tranh đấu dân quyền của người Mỹ gốc châu Phi. Cuộc phục hưng
này đã châm ngòi cho một ngòi pháo văn hoá, và ánh sáng của ngòi pháo này chưa
bao giờ lại toả mạnh như hôm nay.
https://img.zeit.de/2021/01/jenseits-der-110-strasse-bild-1/wide__1025x577__desktop
Nhảy múa trên đường phố: Schülerinnen ở
Harlem, New York, 1925 © New York Daily News / Getty Images
Harlem năm 1921: Nơi đây mỗi lần dạo phố là
một cuộc phiêu lưu kỳ thú: „Ta khoác vào mình bộ đồ vía, để thong thả dạo
chơi với bạn bè, người quen và – nhất là – với người lạ, mà chắc chắn ta sẽ gặp
trên đường“, đó là lời kể của nhà văn James Weldon Johnson đã ghi lại trong
cuốn sách Black Manhattan của ông vào năm 1930. Nhởn nhơ qua
lại trên các đường phố là những người Mỹ gốc châu Phi, những người Jamaica, Cuba,
Haiti, những người từ các hải đảo Brahama và Curaçao. Hai bên đường, các nhà
băng, quán sách báo, phòng mạch bác sĩ, văn phòng luật sư, văn phòng bảo hiểm
và khách sạn do người da đen làm chủ chào mời khách hàng. Các nhà thờ của người
da đen, có tới 160 ngôi vào năm 1928, mở rộng cửa đón tín đồ.
Có lẽ khách đi dạo cũng bắt gặp nhà tiên tri chân
đất, một người đàn ông cao to với mái tóc dợn sóng và bộ râu trắng, suốt mùa
đông hay mùa hè nào cũng có mặt, lang thang hết đường này tới phố kia để rao
giảng Tin Mừng. Hoặc gặp bà buôn Lilian Harris, người chào bán chân heo hầm đặt
trong một chậu thau giặt quần áo lớn, và nhờ đó về sau đã trở thành một doanh
gia địa ốc giàu nứt vách. Gần như mỗi tuần đều có một cuộc diễn hành ở Harlem.
Các nghệ nhân, các văn thi sĩ đi tìm bản sắc cùa mình. Bessie Smith, Luis
Armstrong và Duke Ellington chơi nhạc trong các phòng trà. Josephine Baker đang
chuẩn bị ra mắt trong vở nhạc kịch Shuffle Along, một cuộc ra mắt
rồi sẽ đưa cô lên đài danh vọng. Mỗi vài tuần người ta lại khám phá ra một điệu
nhảy mới: Swing, Charleston và Lindy Hop, Black Bottom, Truckin và Snakehips.
Trong các hộp đêm lậu (Speakeasies) rượu vẫn chảy, dù có lệnh cấm. Thời đại
nhạc Jazz mở đầu, và không đâu ở Harlem nhảy nhót siêng như tại Black Metropolis,
vốn là Mekka (trung tâm hành hương) của New Negro, như triết gia
Alain LeRoy Locke nói tới trong một tập sách xuất bản năm 1925. Đó là một thập
niên đầy sáng tạo: cuộc phục hưng của Harlem.
“Thà làm người rửa chén ở New York còn hơn làm
hiệu trưởng một trường trung học ở Kansas City”, đó là câu nói cửa miệng
trong thập niên 20´của hàng ngàn người, trong đó có nhiều người Mỹ gốc châu Phi
đến từ miền nam Mỹ quốc. Tự khởi thuỷ Harlem là một khu phố của người giàu da
trắng. Nhưng doanh gia địa ốc Philipp A. Payton Jr., một người Mỹ gốc châu Phi,
đã cho những người da đen đến Harlem thuê nhà, bất chấp mọi chống đối, nên rốt
cuộc đã biến khu này thành nơi trú ngụ của đa số dân da đen.
Nhưng giá thuê nhà không rẻ, dù người thuê là dân
thuộc tầng lớp trung lưu. Để có thể có tiền trả, nhiều người vì thế đã bày ra
những rent parties: người ta tổ chức những buổi dạ hội có bán vé
vào cửa ngay tại nhà riêng của mình, trong đó khách được ăn bữa tối với nhạc
sống, sau đó được phép khiêu vũ hay chơi bài. Có những người thuê một tay canh
cửa lực lưỡng, để làm nản lòng những thực khách nào đó có ý định khiêng luôn
bàn ghế về nhà mình. Nguồn gốc của cuộc sống sinh hoạt văn hoá sinh động của
Harlem cũng khởi đi từ những cuộc hội họp gia đình này.
Cũng giống như New York, nhiều thành phố kỹ nghệ
miền bắc nước Mỹ từ 1910 trở đi cũng tiếp nhận nhiều đợt người da đen đến từ
các tiểu bang miền nam. Và cuộc đại di cư (Great Migration) này kéo dài cho tới
năm 1970. Những đợt di cư được tăng nhanh bởi cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Từ lâu, các
nghiệp đoàn công nhân đã tìm mọi cách để ngăn cản không cho người da đen vào
làm trong các nhà máy. Nhưng chiến tranh đã làm gián đoạn phong trào di dân từ
Âu Châu sang Mỹ, nên các xí nghiệp tại đây thiếu hụt trầm trọng nhân công, để
tiếp tục sản xuất vũ khí cho chiến tranh.
Hàng triệu người da đen đã chớp lấy cơ hội, để chạy
trốn khỏi những cuộc sát hại vì kỳ thị chủng tộc tại các tiểu bang miền nam.
Các sử gia ướm chừng đã có tới hơn 2500 người da đen bị thanh toán chỉ từ 1889
cho tới 1913. Tại một số nơi, người ta thích lấy cảnh người da đen bị treo cổ
làm hình mẫu in trên các tấm thiệp bưu điện của họ. Người đấu tranh dân quyền
William Edward Burghardt (W.E.B.) Du Bois nói rằng, sau “những cuộc
rối loạn chủng tộc” năm 1906 tại Atlanta, ông thấy sau cửa sổ một tiệm bán
thịt, bên cạnh những miếng thịt chào hàng, có một khúc xương mắt cá của một
người bị treo cổ bị vằm chặt bằng một thanh gươm.
https://www.naacp.org/wp-content/uploads/2016/04/dubois_banner.jpg
William Edward Burghardt Du Bois (23 tháng 2
năm 1868 – 27 tháng 8 năm 1963) là một người hoạt động dân quyền người Mỹ,
người lãnh đạo, nhà xã hội học, nhà giáo dục, sử gia, nhà văn, biên tập viên,
nhà thơ và học giả. Ông sinh ra và lớn lên ở Great Barrington, Massachusetts.
Ông có hai con với vợ là Nina Gomer. Ông nhập tịch Ghana vào năm 1963 ở tuổi 95
– năm ông qua đời. Nguồn: NAACP
Bạo lực man rợ đó là một chuyện. Chuyện thứ hai là
việc tước bỏ có hệ thống các quyền của người da đen: Với khẩu hiệu trơ trẽn “Phân
cách, nhưng đồng đều” các tiểu bang miền man đã dùng cái gọi là Luật Jim
Crow để loại người da đen ra khỏi nhiều lãnh vực đời sống công và tước quyền
công dân của họ, những quyền mà luật bãi bỏ nô lệ năm 1865 đã cho phép họ được
hưởng.
Chính tinh thần đấu tranh chống lại chủ trương kỳ
thị chủng tộc đã dấy lên cuộc phục hưng nơi các tri thức và nghệ sĩ ở Harlem.
Du Bois là một trong số những người đó; ông là một trí thức nhạy bén, đã học ở
Harvard và ở Berlin. Năm 1909, ông là một trong những người thành lập National
Association for the Advancement of Colored People (NAACP). Năm sau đó,
ông dời tới Harlem và ra tờ nguyệt san của NAACP có tên là The Crisis.
Du Bois không muốn làm một công dân hạng hai.
Như vậy, chủ trương của ông đi ngược lại với đối
thủ của mình là Booker T. Washington, người vốn chủ trương chỉ nâng cao sự thu
nhập kinh tế cho người da đen mà thôi (B. T. Washington lập ra Tuskegee
Institut để dạy nghề thủ công cho người da đen). Washington cho rằng,
việc đòi bình đẳng là “chuyện điên rồ cực đoan nhất”; ông bảo, chẳng có
gì nguy hiểm hơn chống đối và nổi loạn.
Du Bois cũng mâu thuẫn sâu sắc với một người cùng
có lối nghĩ triệt để như ông nhưng đã đi tới những kết luận hoàn toàn khác, đó
là Marcus Garvey, người Jamaica, tới Harlem năm 1916.
Garvey có biệt tài ăn nói, một người của quần
chúng, rực lửa và độc đoán. Du Bois kinh sợ Garvey, không phải chỉ vì anh này
ít học hơn mình, mà cả vì anh ta loan truyền một thứ chủ nghĩa dân tộc cho
người da đen, trong lúc Du Bois triệt để chống lại mọi hình thái kỳ thị. Garvey
cùng các đồng chí bận đồng phục tuần hành khắp dường phố Harlem. Anh ta muốn
đưa tập thể thiểu số da đen bị áp bức về định cư trở lại ở một Phi Châu đã được
giải phóng khỏi chế độ thực dân. Để thực hiện mục tiêu này Garvey thành
lập Black Star Line, một công ty hàng hải cho người da đen. Nhưng
công ty này đã kết thúc với một thảm hoạ tài chính: Năm 1923 Garvey phải vào tù
về tội lừa đảo, và năm 1927 bị trục xuất khỏi nước Mỹ. Dù vậy, những người theo
vẫn tiếp tục trung thành với ông.
Cả Du Bois lẫn Garvey đều thuộc vào Harlem. Cho dù
chủ trương khác biệt, cả hai đã góp phần nâng cao niềm tự tin của người da đen.
Sự tự tin này đã được thể hiện rõ ràng qua cuộc phục hưng ở Harlem sau cuộc Thế
Chiến Thứ Nhất.
New York, ngày 17 tháng Hai 1919: Những đám đông tụ
tập hai bên đại lộ số 5 hoan hô binh sĩ của trung đoàn 369 bộ binh vừa chiến
thắng từ chiến trường Âu châu trở về. Trung đoàn 369 gồm hầu hết người Mỹ gốc
châu Phi xen lẫn một vài người lính tự nguyện từ Puerto Rico. Lính của binh
đoàn này cũng được người dân ở đây gọi là những “Harlem Hellfighters”.
Soldiers of the 369th (15th N.Y.), awarded
the Croix de Guerre for gallantry in action, 1919. Left to right. Front row:
Pvt. Ed Williams, Herbert Taylor, Pvt. Leon Fraitor, Pvt. Ralph Hawkins. Back
Row: Sgt. H. D. Prinas, Sgt. Dan Storms, Pvt. Joe Williams, Pvt. Alfred Hanley,
Cpl. T. W. Taylor. US
National Archives website
Cuộc chào đón không phải chuyện đương nhiên: Bộ
tổng tham mưu lính Mỹ ở Âu Châu đã gặp khó khăn với những đoàn quân người
Mỹ gốc châu Phi. Họ không thể nào tưởng tượng được việc để những đoàn quân này
cùng chiến đấu ngang hàng bên cạnh những binh đoàn da trắng. Vì thế, họ đã để
cho các đoàn quân da đen kết hợp chiến đấu với quân đội Pháp – nhưng trong một
tài liệu mật họ cảnh báo quân Pháp không được coi những người lính Mỹ đa đen là
đồng đội. Ngoài ra “những tiếp xúc thân mật giữa các anh lính da đen với các
phụ nữ da trắng cũng đã khiến cho đám lính Mỹ da trắng điên tiết”.
Nhưng lính Pháp lại mến các tay Harlem
Hellfighters, nhất là yêu nhạc Jazz do ban James Reese Europe[1] Kompanie của họ chơi. Chính
phủ Pháp trao huy chương Croix de Guerre cho Trung đoàn 369 Bộ
binh và vinh danh đặc biệt 171 chiến binh của Trung đoàn Bộ binh này. Khi đang
đóng quân ở Brest để chờ tàu chở về lại quê hương, binh sĩ của đoàn 369 này đã
bị các quân cảnh da trắng của Mỹ ở đây làm nhục một cách tàn bạo. Nhưng ngày 17
tháng Hai này dân New York đã hân hoan đón đoàn quân trở về như những người
hùng. Với đội hình chỉnh tề đoàn quân diễn hành qua Đại Lộ số 5. Nhưng khi vừa
tiến vào Harlem và nghe ban nhạc James Europes Brass trổi lên
bản Here Comes My Daddy Now, đội hình vỡ và đoàn quân nhún nhảy
theo điệu nhạc. Harlem như oà vỡ.
Thiếu úy James Reese Europe và ban nhạc Trung
đoàn bộ binh 369 (Những người lính địa ngục Harlem/Harlem Hellfighters), năm
1919. Nguồn: National Archives, Washington, D.C. (533506)
Trong chiến tranh các binh sĩ da đen cũng có những
phận vụ như lính da trắng. Nhưng tại sao họ lại không có những quyền như lính
da trắng? Và phải chăng tổng thống Woodrow Wilson đã không hứa hẹn về quyền tự
quyết của các dân tộc? Lời hứa đó cũng đã nhóm lên nơi những người lính da đen
niềm hy vọng về quyền tự quyết, về sự bình quyền và tự do.
Trong phạm vi nghệ thuật xem ra người da đen đã gần
có được sự công nhận và bình đẳng. Nhiều nghệ nhân Âu Châu hướng về Phi Châu
với cái nhìn mới: Pablo Picasso, Georges Braque và Henri Matisse đi tìm hứng
khởi nơi nghệ thuật điêu khắc phi châu. Paris ngợi ca nhạc Jazz, nghệ thuật
châu phi và điệu nhảy của Josephine Baker.
Ở Mỹ, người da đen lúc này không những đòi được
bình quyền. Họ cũng muốn từ đây được sống mà không phải đeo mặt nạ.
Mặt nạ là những lối nhìn (Klischees) qua đó người
da trắng dùng để định nghĩa người da đen. Ai chịu khuất phục trước họ, người đó
mới được sống tương đối bình yên. Các Blackface Minstrel Shows,
trong đó các kịch sĩ da trắng vẽ đen mặt mình một cách kệch cỡm, trình bày cho
khán thính giả thấy cái hình ảnh đặc trưng đầy định kiến đó. Theo các màn trình
diễn này, một “Nigger” tiêu biểu là một thằng con nít có bộ mặt buồn bã hay dị
hợm với dáng chậm chạp và lười biếng, nhưng trong lòng lại căng đầy dục vọng
xác thịt; một mẫu hình để cho người dân Mỹ da trắng chế diễu và kinh hãi, bởi
vì mẫu hình này trái ngược lại hoàn toàn mẫu người chăm chỉ và đạo đức theo
thanh giáo (Puritanismus) của những cư dân lập quốc da trắng ban đầu của họ.
Hình ảnh méo mó của các màn diễn Minstrel đã
ấn dấu nơi tâm trí và cơ thể của người dân da đen như thế nào? Điều này được
W.E.B. Du Bois mô tả rõ như sau:
“Đó là một cảm giác kỳ lạ, một sự ý thức kép,
luôn nhìn mình qua con mắt của người khác, luôn đo hồn mình bằng những tiêu chuẩn
của một thế giới vốn cười cợt nhìn mình với sự khinh miệt và thương hại.”
Các nam nữ nghệ sĩ da đen ở Harlem – và không lâu
sau đó cả ở nơi các thành phố khác trên nước Mỹ – hết nhìn mình bằng con mắt
của người ngoài. Họ không còn mang mặt nạ nữa khi hát, viết hay vẽ. Một khuôn
mặt nổi bật nhất trong họ là thi sĩ Langston Huges. Thơ của ông thường nói về
những con người bình dị với những phẩm giá cơ bản của họ. Như một ca sĩ nhạc
buồn (Blues) Huges kể những tình cảnh buồn da diết, nhưng chân thực và đầy sinh
động. Bài thơ Song for a Dark Girl của ông là một thí dụ. Nó
kể chuyện một cô gái trẻ da đen thương khóc người yêu của mình vừa bị treo cổ ở
một ngã tư gần đó.
Phẫn nộ, thất vọng và vui sống là những hoạt cảnh
đan xen nơi nghệ thuật phục hưng của Harlem; và nghệ thuật này luôn luôn đi tìm
cho mình một chân dung ở phía bên kia những chân dung mang chất bài chủng tộc
do người ngoài gán cho mình. Thời đó, rất ít người Mỹ gốc châu Phi có thể kể về
lịch sử gia đình mình quá hai thế hệ, vì mối liên hệ của họ với quê hương phi
châu đã bị cắt lìa. Sử gia Nathan Huggins năm 1971 kể trong cuốn sách của ông
viết về sự phục hưng Harlem: nhiều người tỏ ra hổ thẹn, khi hồi tưởng về thời
nô lệ của họ; điều này cho thấy, các giá trị của người Mỹ da trắng đã thấm nhiễm
vào họ đến mức nào, những giá trị vốn coi sự tự quyết và tự do cá nhân vượt
trên tất cả mọi thứ khác.
Nhưng dù những kẻ chủ trương chế độ nô lệ có tìm
mọi cách lấy đi khỏi người nô lệ căn cước và lịch sử của họ, nỗ lực này đã
không hoàn toàn thành công. Những nghệ nhân gốc châu Phi vẫn còn có thể múc lấy
hứng khởi cho mình từ những minh triết truyền kỳ của dân tộc, từ năng khiếu âm
nhạc và tính chất hài hước của ngôn ngữ, từ bi kịch tôn giáo, từ truyền thống
âm nhạc và truyện kể. Nghệ nhân Aaron
Douglas, một trong những khuôn mặt ấn dấu mạnh nhất của thời phục hưng
Harlem, đã viết trong những năm 1920´:
“Chúng
ta hãy xắn tay áo lên, và hãy băng xuyên qua tiếng cười, nỗi đau, sự buồn rầu,
hy vọng và thất vọng, để đi vào chiều sâu của hồn dân tộc.”
https://kentakepage.com/wp-content/uploads/2016/05/Aaron-Douglas-KP--e1464128243926.jpg
Aaron Douglas (26
tháng 5 năm 1899 – 2 tháng 2 năm 1979) là một họa sĩ, người minh họa và thày
dạy hội họangười Mỹ. Ông là một nhân vật quan trọng trong thời kỳ Phục hưng
Harlem. https://kentakepage.com
Harlem trong những năm đó cũng đã lôi cuốn các cư
dân New York da trắng và khách du lịch vào trong những hộp đêm, những Party lậu
và những buổi diễn trò hài hước (Cabarets). Harlem vốn thanh lịch, là một liều
thuốc chống lại chủ nghĩa thanh giáo; nó cung cấp đủ thứ: nhảy nhót, ca nhạc,
tình dục, rượu và ma tuý; nó giải toả mọi ngượng ngập, chào mời khách một chút
của lạ, mà chẳng cần phải đi đâu xa. Đã có lúc các văn thi sĩ da đen được các
mạnh thường quân da trắng tài trợ; thoảng hoặc các mạnh thường quân này còn cổ
võ cho quan điểm của họ về cuộc sống “sơ khai và chân thật” của dân tộc
châu Phi. Sora Neale Hurston, một nhà dân tộc học và nhà văn, thời đó đã châm
biếm gọi họ là những “Negrotarians”, những người da trắng có tiền đang ngồi bàn
tiệc với dao nĩa bằng bạc và trứng cá muối nhâm nhi các nỗi khốn khổ của những
người lao động da đen. Thời kỳ phục hưng của Harlem kéo dài cho tới cuộc
vỡ sàn chứng khoán vào tháng Mười 1929. Nhưng mãi về sau, khu phố này vẫn là
khối nam châm thu hút các nghệ nhân da đen. Và gia sản của Harlem thời phục
hưng vẫn tiếp tục sống cho tới ngày nay: Nó đặt nền móng cho phong trào tranh
đầu dân quyền sau Thế Chiến Thứ Hai và cho sự chiến thắng hoàn vũ của văn hoá
người Mỹ gốc châu Phi. Tiếng vang của nó vẫn vọng lên từ những cuộc phản kháng
hiện nay chống lại bạo lực và kỳ thị chủng tộc. Bài thơ nổi tiếng Cả
Tôi Nữa của Langston Hughes có những câu:
„Tôi
là người anh em có nước da đậm hơn, / Người ta đẩy tôi vào nhà bếp để ăn, / khi
các thực khách tới. / Nhưng tôi cười / Và ăn no / Và trở nên mạnh mẽ.“
Langston Hughes
(1902 – 1967)
VIDEO :
Aug 8, 2010
Tác giả | Kökritz là ký giả của „Die Zeit“ ở
Đức. Từ 2011 tới 2014 Bà là phóng viên cho Die Zeit tại Peking. Vì những bài
phóng sự gây nhức nhối cho chế độ tại đây, công an và mật vụ Trung Hoa cộng sản
đã muốn ám hại bà, sau khi đã bắt cô phụ tá người Hoa của bà. Với sự giúp đỡ kín
đáo của Toà Đại Sứ Đức ở Beijing, Kökritz đã thoát được khỏi Hoa lục trong
đường tơ kẽ tóc. Từ 2017 tới nay Bà là phái viên của Die Zeit tại Phi
Châu.
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng
lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn | Nguyên tác:
Angela Kökritz, Jenseits der 110. Straße. Die Zeit, số
1, ngày 30.12.2020.
Bài do người dịch gởi đến DCVOnline. Đã đăng
trên Diễn
Đàn Việt Nam 21, ngày 10 tháng 1, 2020. DCVOnline biên tập, phụ chú và minh
họa.
[1] Đường 110 chạy giữa Harlem và Công viên Chính ở
thành phố, là ranh giới không chính thức của chủng tộc và giai cấp vào những năm
1970 của Thành phố New York.
[2] Thiếu úy, trưởng ban nhạc (369th
Infantry Regiment (United States), Wikipedia)
No comments:
Post a Comment