Nỗi
buồn ngày xuân mỗi khi nhớ tới mong ước của tác giả ca khúc ‘Mùa xuân đầu tiên’
Lê Quang Ngọ và Lê Quí Trọng
08/02/2021
Văn
Cao là một nhạc sĩ tài hoa của nền âm nhạc Việt. Là “một trong những
gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc
Việt Nam”, Văn Cao từng tham gia Việt Minh, với thế mạnh của mình ông
đã viết “nhiều ca khúc mang âm hưởng hào hùng” và “đã trở thành một nhạc sĩ
tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến”. (1)
Ông
là tác giả bài hát ‘Tiến quân ca’ với ca từ hừng hực khí thế xốc tới cho những
người lính Việt Minh trang bị vũ khí thô sơ thời đó với ca từ: “Đường
vinh quang xây xác quân thù” để “Núi sông Việt nam ta vững bền”.
Có thể do bài hát phù hơp với nhu cầu chính trị của giai đoạn đó, nên nó đã
được chọn làm Quốc ca của chính quyền cộng sản cho đến ngày nay.
Là
người đi theo Việt Minh trước năm 1945 với mong muốn xây dựng một đất nước Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc, Văn Cao đã mang hết tài năng và tâm huyết để phục vụ
chế độ, với tư tưởng tự do sáng tác của người nghệ sĩ. Nhưng ông đã nhầm, những
mong muốn tốt đẹp của ông đã bị chế độ mà ông tôn sùng, mạnh tay gạt bỏ.
Sau
sự kiện Nhân văn – Giai phẩm, Văn Cao bị thất sủng, may mà Tiến quân ca đã đỡ
đòn cho ông, nên ông không bị đối xử quá thậm tệ như người cha của nghệ sĩ dương
cầm Đặng Thái Sơn, mà người dân được biết qua báo mạng trong những ngày gần
đây. Thông tin từ trang web của chính quyền Hải phòng, cho biết: “Trừ
Tiến quân ca, tất cả những ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền
chiến khác không được lưu hành ở miền Bắc. Đến cuối thập niên 80, những nhạc
phẩm này mới được lưu hành trở lại”.
Đứa
con tinh thần ‘Tiến quân ca’ của Văn Cao được chính quyền sử dụng như nguồn gây
hưng phấn tinh thần cho cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Có lẽ chính vì vậy
mà sau năm 1975 ông đã thấm thía để viết ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” với hy
vọng một sự đổi thay mới về Thế Thái Nhân Tình.
Đánh
giá về ca khúc này, bài báo VnExpress có đoạn: “Ở cái nhìn sâu đằng sau
một chiến thắng vang dội là những gì dân tộc này đã phải đánh đổi, hy sinh. Ở
cái nhìn xa đằng sau niềm hân hoan phút chốc này là bao nỗi lo về một cuộc đời
mới, một cuộc dựng xây mới. Vì thế mà ông vừa bồi hồi, vừa trăn trở:
‘Từ
đây người biết quê người
Từ
đây người biết thương người
Từ
đây người biết yêu người…’
Như
một niềm tin vừa được khẳng định nhưng cũng như một băn khoăn, suy tư về tương
lai:
‘Từ
đây người biết quê người?
Từ
đây người biết thương người
Từ
đây người biết yêu người’?”
Luôn
do dự và hồ nghi là tâm thế một người mang cảm thức của cả dân tộc vừa bước ra
từ trong chiến tranh, nâng niu trên tay một niềm hạnh phúc diệu kỳ và mong manh
như nằm ngoài sự thật. Tâm thế ấy đã vượt lên trên niềm vui thoáng chốc để dự
cảm, để xót xa và để thấm thía về con đường dài phía trước mà dân tộc sẽ phải
gồng mình bước qua. Với đầy dẫy đau thương, mất mát, ly tan hay những vách ngăn
không cùng giữa quá khứ và tương lai, giữa thế hệ đã hy sinh và thế hệ được
hưởng trái ngọt ngày hôm nay”. (2)
Nhưng
đáng tiếc sau khi ra đời, ca khúc cuối cùng của Văn Cao cũng không được phép
phổ biến rộng rãi vì bị đánh giá là “nhạc uỷ mị”, bởi nó không nằm trong mạch
cảm hứng của những bài hát “được viết bởi giọng trưởng, âm hưởng hào
hùng, sảng khoái, ca từ hân hoan, hừng hực khí thế chiến thắng” vào
thời điểm này. Bởi “Nhiều người cho rằng ca khúc gì mà ‘nghe mơ hồ rắc
rối, kêu gọi tình thương một cách chung chung, thiếu tính giai cấp’ (Từ đây
người biết quê người… Từ đây người biết thương người… Từ đây người biết yêu
người). Có ý kiến chỉ trích tính chất ủy mị, yếu đuối (nước mắt trên vai anh,
giọt sưởi ấm đôi vai anh) của bài hát không hợp với khí thế tưng bừng trong
ngày vui toàn thắng của dân tộc”.
Vì
vậy số phận của ca khúc này cũng bị đối xử không công bằng như chính người đã
sáng tác ra nó. Chỉ đến đầu những năm 1990, nó mới được phổ biến đến người dân.
Và cho đến nay, không những “những giai điệu dìu dặt, khoan thai theo đàn
chim én bay trong bài hát vẫn làm ấm lòng người Việt Nam khi Tết đến, xuân về”. mà
nó còn được chính cái thể chế đã từng hắt hủi nó sử dụng làm công cụ tuyên
truyền thông qua các đoàn văn nghệ ra nước ngoài phục người Việt sống xa Tổ
quốc.
Điều
gì đã tạo nên sức sống trường tồn cho ca khúc này đến vậy, trong khi các ca
khúc nhạc đỏ đang bị lớp bụi thời gian che phủ? Câu trả lời đúng nhất có lẽ là: “Giai
điệu và ca từ mới nếm vào thì thấy dịu ngọt nhưng cái ý, cái hồn cứ ngấm dần,
nghe đắng quanh cổ xuống tận tim gan…”.
Bởi
trong ca khúc của mình Văn Cao đã lặp đi lặp lại ca từ tha thiết yêu thương:
Từ
đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Nhìn
đơn thuần, nó không chỉ là một mong ước mà còn là một lời nhắn nhủ với tất cả
mọi người, bởi Văn Cao dùng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ ba.
Nhưng
nếu nhìn nhận cụ thể hơn qua lăng kính cuộc đời đầy truân chuyên trắc trở của
Văn Cao, cũng như tài năng của ông, vấn đề không đơn giản như vậy. Văn Cao đã
dùng chữ “người”, từ “dùng để chỉ từng cá thể người thuộc
một loại, một tầng lớp nào đó” (3), trong ca từ để gửi cái ý của mình
đến một tầng lớp ít người trong xã hội nhưng có quyền lực tuyệt đối nên “biết
thương”, “biết yêu” đồng loại.
Tính
đến thời điểm ca khúc này ra đời, Văn Cao đã sống với chế độ cộng sản trên 30
năm và với thân phận là nạn nhân chế độ từ cuối thập niên 1950, thời gian đã
giúp ông hiểu rõ bản chất của những người cộng sản. Và như chúng ta thấy, ca
khúc ra đời đúng 45 năm nhưng những gì mà Văn Cao mong muốn và nhắn nhủ cũng
chỉ là viễn mơ như Suối Mơ của ông mà thôi.
–
Bởi vì: “Từ đây người biết quê người”, thì sau khi cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn chấm dứt, dưới chế độ của “người” cộng
sản, chế độ mà nó “biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của
các Nhà nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới,
khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản,” (4)
và “Nếu cột điện ở Mỹ biết đi thì sẽ về Việt Nam”, nước mắt chia ly vẫn
không hề chấm dứt.
Đã
có biết bao người dân không quản hiểm nguy đến tính mạng, phải từ bỏ quê hương
đất nước, ra đi tìm quê hương mới. Năm này qua năm khác, dòng người cứ tiếp tục
âm thầm ra đi. Từ “thuyền nhân” trên biển, đến “thùng nhân” trên
bộ, đến việc đi ké cả chuyên cơ của chủ tich quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân sang
Hàn Quốc.
Riêng
nước Mỹ, “con số mà Viện Chính sách Di cư (Migration Policy Institute)
thống kê cho thấy, năm 1980, số người Việt Nam cư trú ở Mỹ là 231.000; năm 2000
lên đến 988.000 và năm 2017 đã là 1.343.000 người” (5).
Ở
Việt Nam, trong khi nhiều người dân không phải vì lười biếng mà thành người vô
gia cư ngay trên quê hương mình như người dân Thủ Thiêm, Dương Nội, vườn rau
Lộc Hưng, có rất nhiều “người” sẵn sàng đầu tư tiền của ra nước
ngoài cho cuộc sống mai sau, chỉ vì không muốn bản thân và gia đình trở thành
nạn nhân của “hội chứng ếch luộc” như trường hợp gia đình ông nghị
Phạm Phú Quốc.
–
Bởi vì: “Từ đây người biết thương người”, thì với tinh thần
hòa hợp dân tộc “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ
hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin
cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai” (6), các Thương phế binh Việt
Nam Cộng Hòa “bị phân biệt đối xử, ngược đãi vì họ bị chính quyền mới
xếp vào thành phần ‘ngụy quân, ngụy quyền’ và ‘có nợ máu với nhân dân’” (7)
bởi trên thực tế họ và những tử sĩ VNCH “ở về phía bên thua cuộc và
chính thể mà họ phụng sự không còn nữa, bị đẩy ra bên lề của các mối quan tâm” (8).
Đó
là với những người thuộc bên thua cuộc, vậy những người bên thắng cuộc có được
“người” ta thương không? Chính quyền cộng sản rất hào phóng, sẵn sàng
chi ra hàng ngàn tỷ đồng tiền thuế của dân để xây dựng các tượng đài và các khu
di tích tại các địa phương (9) cũng như đầu tư tốn kém cho việc chuẩn bị đại
hội đảng bộ các cấp và đại hội đảng toàn quốc lần thứ 13 nhưng lại không thể
xây nổi “nhà vệ sinh tử tế cho trẻ”. (10)
–
Bởi vì: “Từ nay người biết yêu người”, thì câu thơ “Sân
đình máu chảy đường thôn lính đầy” của Tố Hữu lại được tái hiện vào
rạng sáng ngày 9.1.2020 tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Hà Nội để thực hiện hóa
việc “phanh thây uống máu quân thù” (11) trong ca từ gốc Tiến Quân
Ca của Văn Cao đối với người đồng chí mà không đồng hướng của đảng và sau đó
quyết tâm tru di nốt đời thứ hai gia tộc Lê Đình ở thôn Hoành, chỉ vì trong lúc
bốc đồng, họ đã dám thách thức cả chính quyền.
Cũng
chỉ vì mong muốn xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp hơn qua các hình thức phản
biện, những nhà bất đồng chính kiến được Michel Eltchaninof, một triết gia Pháp
cho là “những người đi trước thời đại. Họ được nuôi dưỡng bởi sự can đảm và
thái độ nổi loạn. Họ phơi trần những tệ trạng không thể chấp nhận trong xã hội
họ đang sống: áp lực, kiểm duyệt, thao túng quyền hành, gian lận bầu cử, sát
hại người vô tội, chiếm nhà chiếm đất… Nhưng họ tranh đấu dưới những hình thức
đôi khi độc đáo, luôn luôn bất bạo động. Họ không tìm cách bịt mắt giả mù, cũng
không đánh võ miệng trước những bất công, những lạm dụng quyền thế. Họ hành
động để đặt nhà cầm quyền trước trách nhiệm của mình”. (12)
Kết
quả là, họ luôn bị thẳng tay đàn áp vì chính quyền cộng sản coi đó là nguy cơ
đe dọa sự tồn vong của chế độ và buộc họ tội vi phạm Điều 88, Bộ luật Hình sự
về hành vi “lợi dụng quyền tự do” để tuyên truyền chống phá Nhà nước. Ngoài ra
chính quyền còn dùng những mưu hèn, kế bẩn về lâu dài để phân hóa và triệt hạ
những nhà bất đồng chính kiến, nhằm thủ tiêu tinh thần đấu tranh của họ như
trường hợp “bất nhất” và “đảo ngũ” của cựu Bộ
trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc.
***
Vụ
án Hồ Duy Hải là một vụ án “có nhiều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
trong quá trình điều tra vụ án: Vi phạm về khám nghiệm hiện trường; Vi phạm về
thu thập, đánh giá chứng cứ; Vi phạm trong trưng cầu giám định. Viện, tòa đều
chỉ lựa chọn sử dụng những chứng cứ có lợi trong việc buộc tội, thay vì những
chứng cứ có lợi cho việc gỡ tội. Tòa không làm rõ được những mâu thuẫn trong vụ
án. Chứng cứ ngoại phạm của Hải chưa được xem xét, đánh giá kỹ. Và đặc biệt:
Kết luận trong bản án sai với kết luận giám định, dựa trên sự “suy diễn chết
người” của kết luận điều tra và cáo trạng” (13).
Vụ
án đã gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế vì nó đã kéo dài 13 năm, càng
ngày càng lộ ra những bằng chứng ngoại phạm của Hồ Duy Hải. Nhưng khi Nguyễn
Hòa Bình, “người” hai lần đưa chiếc thòng lọng vào cổ tử tù trẻ
này, không bị thất sủng như lời đồn đoán sau giám đốc thẩm xử vụ án này ngày
8.5.2020, mà còn thăng tiến vào Bộ Chính trị của đảng Cộng sản, thì số phận của
Hồ Duy Hải càng bấp bênh hơn, cũng như công lý ở mảnh đất hình chữ S này sẽ
tiếp tục còn bị chà đạp nhiều hơn khi mà cái điều lệ đảng cũng chẳng được “người” ta
tôn trọng.
Thưa
Nhạc sĩ Văn Cao!
Những
người nghệ sĩ thường hay đa cảm, cho nên họ sống nhân hậu. Cũng chính bởi sự
nhân hậu này mà đến cuối đời ông vẫn bị nhầm lẫn, đặt hy vọng nhân từ vào
nhữnng người cộng sản, những người dùng bạo lực để cướp chính quyền và lấy chủ
nghĩa Marx-Lenin làm kim chỉ nam cho hành động của mình.
Dưới
suối vàng, xin ông đừng giận những kẻ hậu thế này, khi chúng tôi nói rõ ra
rằng, ca từ của Tiến quân ca, dù đã được cô đọng và trau chuốt kỹ càng nó cũnng
chỉ phù hợp với một giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khi “người” ta
vẫn giữ nguyên ca từ đó làm động lực chính trị “cho mỗi việc làm, mỗi hành
động” (14) cho suốt cả chặng đường phát triển của đất nước với “Đường
vinh quang xây xác quân thù” và “Tiến mau ra sa trường” để
“Nước non Việt Nam ta vững bền”, mà thật ra là để chế độ đó trường
tồn, thì momg ước của ông thật khó thành hiện thực.
Cách
đối nhân xử thế của những người cộng sản, dù đã được trang bị đầy mình những
học vị cao sang và trình độ cao cấp lý luận chính trị, vẫn chỉ là những
kẻ “bất chi lý” và “tiểu nhân” như kiểu Bùi Văn
Cường, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, mà thôi.
_______
Chú
thích:
- https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_Cao
- https://vnexpress.net/mua-xuan-dau-tien-va-nguoi-tien-tri-cua-thoi-dai-2938149.html
- http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di
- https://vi.wikiquote.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Doan
- https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/cai-cot-den-ma-biet-di/
- https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/bai-1-tu-ngon-tay-tren-ban-tay-den-vong-tay-hoa-hop-dan-toc-616359
- https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-last-hope-from-arvn-veterans-04212020161321.html
- https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52497351
- https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/kinh-te-xanh/quy-hoach-bao-ton-ton-tao-khu-luu-niem-chu-tich-ho-chi-minh-tai-nghe-an-1329069.html
- https://vnexpress.net/giao-vien-dan-toc-thieu-so-mong-truong-co-nha-ve-sinh-4192679.html
- https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFn_qu%C3%A2n_ca
- https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_b%E1%BA%A5t_%C4%91%E1%BB%93ng_ch%C3%ADnh_ki%E1%BA%BFn
- https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_H%E1%BB%93_Duy_H%E1%BA%A3i#cite_note-112
1 COMMENT
Tôi
may mắn được đưa hình ảnh nhạc sĩ Văn Cao và tuyệt phẩm “Mùa xuân đầu tiên” vào
Trường thiên lịch sử tiểu thuyết “Trăng Huyết”. Cho đến nay, bộ sách ấy (4 tập,
8 phần) đã in và tái bản 3 lần, đăng trên khoảng 10 trang web. Riêng ở trang
"VN Thư quán" cho tới nay đã có 898.520 lượt vào đọc.
Dưới đây, trích đoạn tả một cảnh Hà Nội vào một buổi chiều cuối tháng 4.1975,
trong đó có Văn Cao và “Mùa xuân đầu tiên” cùng ý nghĩa mà tôi cảm nhận về bản
nhạc ấy.
[.]
Xe lăn bánh giữa rừng cờ đỏ thắm và hàng hàng lớp lớp người dân thủ đô đang
nhập cơn đồng thiếp đại thắng. Họ say sưa nhìn các tấm bản đồ thật lớn, ánh
điện chớp nháy liên tục theo đường tiến quân mùa xuân. Từ vạn chiếc loa phóng
thanh, tiếng hợp ca trùng điệp, líu lo, hùng tráng và nôn nao rượt đuổi nhau
như cơn bão nổi lên từ Trị Thiên, Đà Nẵng băng qua Tây Nguyên tiến về Sài Gòn.
Thỉnh thoảng có một giọng nam vận hơi thật đầy rồi cất lên cao vút, hát vang
ngàn lời ngợi ca lãnh tụ đẹp nhất tên người và ngôi sao mai Hà Nội mến yêu. Đâu
đó bên hồ Thuyền Quang, trên căn gác nhỏ, người nhạc sĩ héo hắt của khúc Tiến
quân ca sắt máu ba chục năm trước nay bắt đầu sáng tác trở lại với những nốt
nhạc rạo rực giấc mơ mùa xuân đầu tiên có những người từ đây biết con người,
biết thương người và biết yêu người.
[.]
https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx...
No comments:
Post a Comment