Tuesday, 16 February 2021

NỢ : TRUNG QUỐC HUNG THẦN CỦA NAM Á (Thanh Hà - RFI)

 



Nợ : Trung Quốc hung thần của Nam Á

Thanh Hà  -  RFI

Đăng ngày: 16/02/2021 - 13:10

https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-kinh-t%E1%BA%BF/20210216-n%E1%BB%A3-trung-qu%E1%B....BB%A7a-nam-%C3%A1

 

Trung Quốc đang từ vị thế « cứu tinh » trở thành cơn « ác mộng » khi hiện nguyên hình là một ông chủ nợ « cầm dao đằng chuôi » và hành xử như một « con cá mập » với các nước Nam Á. Trên đây là nhận định của giới chuyên gia khi phân tích về « bẫy nợ Trung Quốc ».

 

https://s.rfi.fr/media/display/b0720004-7044-11eb-a9c8-005056bff430/w:980/p:16x9/000_TK5BI.webp

Lính Pakistan đứng gác tại cảng Gwadar, Pakistan. Ảnh chụp ngày 04/10/2017. AFP - AMELIE HERENSTEIN

 

Sau những năm tháng mở rộng vòng tay đón nhận đầu tư và tín dụng của Trung Quốc, quần đảo Maldives trong vùng Ấn Độ Dương, với GDP 5 tỷ đô la, choáng váng khi phải trả nợ hơn 1,5 tỷ đô la hàng năm cho Bắc Kinh. Tại Islamabad, bốn năm sau khi ồn áo ký kết với Trung Quốc 51 thỏa thuận hợp tác và phát triển trong khuôn khổ chương trình « Một vành đai, một con đường » xây dựng hành lang kinh tế mở từ Tân Cương đến tận vùng biển Ả Rập, các doanh nhân Pakistan nhận thấy rằng « ngoại trừ một vài tập đoàn xi-măng, không có nhiều công ty Pakistan hưởng lợi từ những hợp đồng khổng lồ trị giá hàng trăm triệu đô la với Trung Quốc ». Tệ hơn nữa Islamabad bị cáo buộc « cõng rắn cắn gà nhà » trước sức cạnh tranh quá mạnh của các tập đoàn Trung Quốc, như ghi nhận của cây bút xã luật Khuram Husain trên nhật báo Pakistan Dawn.

 

*

Từ « Con Đương Tơ Lụa Mới » đến « Núi Nợ »

 

Theo một nghiên cứu của đại học Mỹ ở Boston công bố tháng 12/2020, trong giai đoạn 2008-2019 Bắc Kinh đã cấp 495 tỷ đô la tín dụng cho các nước nghèo. Như vậy chỉ một mình Trung Quốc giải ngân một khoản tiền đương đương với Ngân Hàng Thế Giới trong cùng thời kỳ. Nói cách khác, chủ nợ lớn nhất của các nền kinh tế đang phát triển hiện nay là Trung Quốc. Riêng với khu vực Nam Á thì sao ?

 

Trả lời đài RFI Tiếng Việt, chuyên gia Olivier Guillard thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu về Ấn Độ và Nam Á- CERIAS, đại học Montréal-Canada trước hết nêu bật mức độ « thân – sơ » giữa Bắc Kinh với các đối tác trong khu vực và đó là điểm khởi đầu định hướng cho chiến lược cấp vốn của Bắc Kinh cho Nam Á

 

Olivier Guillard : « Từ gần 20 năm nay, Trung Quốc theo đuổi một chiến lược với khu vực Nam Á và phân loại các đối tượng như sau : đẩy mạnh thêm quan hệ với một số quốc gia, như là trường hợp của Pakistan, mà từ trước đến nay vẫn có truyền thống thân thiện với Bắc Kinh ; một số khác không hẳn là thù nghịch nhưng có một mối liên hệ nhậy cảm với Trung Quốc : đây là trường hợp của Nepal, hay Bangladesh. Với khối này, Trung Quốc cố gắng chứng tỏ là một người bạn tốt. Với một số khác thì Bắc Kinh dùng hầu bao để chiêu dụ, như đã làm với quần đảo Maldives và Sri Lanka. Những quốc gia này tận dụng tư bản của Trung Quốc để mở mang cả về thương mại lẫn kinh tế. Riêng Ấn Độ không cần vốn của Trung Quốc để phát triển ».

 

*

Đâu là lợi thế của Trung Quốc trong mắt các nền kinh tế đang trỗi dậy ?

 

Olivier Guillard : « Trung Quốc không cho vay với lãi suất hời nhất, nhưng lại có ưu điểm là không đòi hỏi những điều kiện đi kèm quá khắt khe như là trong trường hợp mà các nước Nam Á phải cầu viện đến Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế Giới, hay Ngân Hàng Phát Triển Á Châu và những tổ chức quốc tế khác. Đó là một ưu thế của Bắc Kinh khiến Trung Quốc trở thành một nhà chủ nợ có sức thuyết phục cao ».

 

*

Trong bài viết đăng trên tạp chí Asialyst đầu tháng Giêng 2021, mang tựa đề « Trước ông chủ nợ là Trung Quốc liệu các quốc gia trong vùng Nam Á có tránh được bẫy nợ hay không ? » chuyên gia Olivier Guillard đã chứng minh rằng Bắc Kinh luôn « cầm dao đằng chuôi ».

 

Olivier Guillard « Trung Quốc cấp vốn cho các quốc gia khác dựa trên nhiều cơ sở : đương nhiên là phải kể đến yếu tố tài chính, nhưng bên cạnh đó chủ yếu là tính toán chính trị. Một khi Bắc Kinh cho vay vài trăm triệu thậm chí là vài tỷ đô la để cho Pakistan tài trợ những công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khổng lồ, thì đằng sau đó là rất nhiều thâm ý khác.

Thứ nhất, số tiền cho vay này cho phép Trung Quốc kiểm soát một phần các hoạt động kinh tế của Pakistan để bảo đảm rằng Islamabad có khả năng quản lý số tiền nói trên và nhất là có khả năng hoàn trả lại cho chủ nợ là Trung Quốc. Điểm thứ nhì là Bắc Kinh thường cho vay với lãi suất cao hơn so với thị trường, cao hơn so với lãi suất của các định chế tài chính đa quốc gia, thành thử phí tổn mà các con nợ phải hoàn trả cho Trung Quốc lại càng nặng. Điều đó có nghĩa là những nước đi vay phải bảo đảm có được một tỷ lệ trăng trưởng nào đó thì mới đủ sức trả nợ. Nếu không các nền kinh tế này rơi vào cái bẫy nợ ».

 

*

Những bẫy nợ đó mang hình thức nào ?

 

Olivier Guillard :  « Trong số những bẫy nợ một khi mà Trung Quốc đã cấp những khoản tín dụng rất lớn, đương nhiên kèm theo đó là những điều kiện để bảo đảm là sớm muộn gì thì Bắc Kinh cũng sẽ thu hồi lại vốn. Vào lúc mà các nền kinh tế cần nguồn tài trợ để phát triển, như là trường hợp của Sri Lanka hay Bangladesh. Các nền kinh tế này xem Trung Quốc như một vị cứu tinh : Bắc Kinh trích xuất vốn một cách dễ dàng nhưng Trung Quốc cho vay với lãi suất cao và ấn định một thời hạn khác ngắn ngủi để các chính quyền Colombo và Dacca phải hoàn trả. Thí dụ như Sri Lanka chẳng hạn : sau khi đã vay rất nhiều tiền của Trung Quốc, Colombo không thể thanh toán nợ đáo hạn, Bắc Kinh thúc hối đối tác Nam Á này đàm phán lại để khất hoặc xóa bớt một phần nợ. Trong cuộc thương lượng, Trung Quốc đòi Sri Lanka nhượng bộ một phần chủ quyền quốc gia có nghĩa là nhường quyền khai thác cảng Hambantota lại cho một tập đoàn của Trung Quốc trong thời hạn 99 năm. Như vậy có nghĩa là từ chuyện đi vay tiền để phát triển kinh tế, nợ của Sri Lanka đã trở thành một vấn cả về mặt chính trị lẫn địa chính trị ».

 

*

Yếu tố quân sự

 

Trong trường hợp của Pakistan, yếu tố địa chính trị quá rõ ràng : Washington càng lạnh nhạt với Islamabad, Trung Quốc lại càng chiếm lợi thế.

 

Là một quốc gia có đường biên giới chung với Ấn Độ và quan hệ giữa Islamabad và New Delhi luôn gặp nhiều sóng gió, Pakistan nghiễm nhiên trở thành một đồng minh ở Nam Á hàng đầu của Trung Quốc Bên cạnh bang giao tốt đẹp từ những năm 1960, 2015 được coi là một cột mốc quan trọng khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thân chinh sang tận Islamabad khởi động dự án thiết lập một « hành lang kinh tế Trung Quốc – Pakistan » : đây là một kế hoạch đầu tư 46 tỷ đô la do vốn của Trung Quốc tài trợ để xây dựng cho « nước bạn » từ hệ thống đường xa lộ đến nhà máy điện, từ cảng nước sâu ở Gwadar mở ra biển Ả Rập đến hê thống đường sắt cho Pakistan. Đổi lại trục Islamabad-Bắc Kinh đã tăng cường đáng kể những hợp tác quân sự. Quân đội Pakistan vốn kiểm soát từ các phương tiện truyền thống đến vấn đề an ninh, quốc phòng, kho vũ khí hạt nhân và cả vế ngoại giao cùng theo đuổi mục đích kềm tỏa ảnh hưởng của Ẩn Độ ở Nam Á và cả trong vùng Ấn Độ Dương. Trong bài toán địa chính trị đó, cả phía Trung Quốc lẫn Pakistan cùng không quên một vế quan trọng đó là những hợp đồng mua bán vũ khí trị giá bạc triệu. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Hòa Bình Stockholm – SIPRI năm 2018, Trung Quốc cung cấp đến 70 % vũ khí cho Pakistan. Một chục năm trước đó, tỷ lệ này là 50 %.

 

Chuyên gia về Ấn Độ và Nam Á tại đại học Montréal, Olivier Guillard, lo ngại là một phần các khoản tín dụng vay được của Trung Quốc « bốc hơi » để phục vụ quyền lợi của một số ít các nhà lãnh đạo tại các nước nghèo ở Nam Á

 

Olivier Guillard : «  Hoàn toàn đúng như vậy. Một số quốc gia Nam Á và kể cả ở Đông Nam Á, mau mắn nhận tín dụng của Trung Quốc. Tuy nhiên tại các quốc gia này thường thiếu vắng những cơ quan giám sát về tài chính, một phần các khoản tín dụng nhận được của Trung Quốc bốc hơi, bay thẳng vào túi của một số các quan chức. Trong khi đó các dự án phát triển thì hoàn toàn không được đem ra thảo luận một cách công khai, báo chí cũng không được quyền nhòm ngó đến … Nạn tham nhũng trong một số trường hợp là điều không tránh khỏi ».

 

*

Nói cách khác, hiệu quả kinh tế không mấy khi được kiểm chứng. Chỉ biết một điều là các nước nghèo lại hứng chịu cảnh nợ nần chồng chất trước một ông chủ nợ không mấy khoan dung. Olivier Guillard giải thích :

 

Olivier Guillard : « Một số dự án đã được thực hiện nhờ vốn của Trung Quốc hoạt động tốt, thí dụ như trong lĩnh vực trùng tu các cơ sở hạ tầng. Nhưng ngược lại thì cũng có rất nhiều các công trình khác gây nhiều tranh cãi. Hiệu quả thực sự về mặt kinh tế của các dự án được tài trợ nhờ vốn Trung Quốc không phải lúc nào cũng được kiểm chứng. Điều chắc chắn duy nhất : đó là nguồn gốc dẫn hiện tượng nợ nần chồng chất tại các nước Nam Á ».

 

*

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng dưới tác động của đại dịch y tế chưa tới hồi kết, liệu rằng các nước Nam Á lại càng khó cưỡng lại với những luồng tư bản của  Trung Quốc ?

 

Olivier Guillard : «  Đúng là như vậy, khủng hoảng Covid khiến kinh tế toàn cầu chựng lại. Tăng trưởng của Trung Quốc sụt giảm và tác động lây lan tới các nền kinh tế Á châu – ngoại trừ một vài trường hơp riêng lẻ. Các nền kinh tế đang phát triển gặp khó khăn về tài chính và bắt buộc phải đi tìm những nguồn tài trợ khác. Đây có lẽ là cơ hội để những nước này hướng tới những nhà tài trợ khác ngoài Trung Quốc. Tôi muốn nói đến Nhật Bản, Hàn Quốc hay Ấn Độ … để thế vào chỗ của Trung Quốc. Hơn nữa bản thân Bắc Kinh cũng đang phải trích xuất các khoản dự trữ tiền tệ và tài chính riêng của mình để khắc phục hậu quả kinh tế và xã hội mà khủng hoảng y tế gây nên. Lợi thế duy nhất của Bắc Kinh trong mắt các con nợ đó là Trung Quốc dễ dàng cho vay mà không đòi hỏi quá nhiều về những điều kiện như là về mặt nhân quyền, chính trị, minh bạch chống tham nhũng …    Khi cho vay như vậy thì Trung Quốc cũng có lợi : Bắc Kinh được bảo đảm rằng các con nợ của mình sẽ không về hùa với phương Tây để chọc ngoáy vào những hồ sơ nhậy cảm đối với Trung Quốc như là trên vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương  ... Tôi nghĩ rằng trong hoàn cảnh hiện tại, có nghiều khả năng, bất chấp những rủi ro như vừa trình bày, các nền kinh tế đang phát triển sẽ tiếp tục chạy theo Trung Quốc, cầu viện Bắc Kinh bỏ vố, tham gia vào các dự án phát triển của khu vực Nam Á ».

 

*

Tư bản Trung Quốc trở nên khan hiếm

 

Tuy nhiên chỉ cần nhìn vào khối tín dụng mà hai ngân hàng lớn của Trung Quốc là Ngân Hàng Phát Triển và Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu cũng đủ cho thấy là Bắc Kinh đã tính tới khả năng các con nợ không đủ khả năng thanh toán.

 

Năm 2016 hai định chế tài chính này cấp 75 tỷ đô la tín dụng cho khu vực Nam Á. Đến 2019 con số nói trên rơi xuống còn 4 tỷ. Giám đốc trung tâm nghiên cứu thuộc đại học Boston, Kevin P.Gallergher trên nhật báo le Monde của Pháp hôm 17/01/2021 quan niệm Bắc Kinh ý thức được rằng « nợ khó đòi có nguy cơ làm suy yếu các doanh nghiệp Trung Quốc đang thực hiện những công trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho các nước nghèo » ở Nam Á. 

 

====================================================

.

.

Trung Quốc vượt Mỹ trở thành bạn hàng lớn nhất của Liên Hiệp Châu Âu

Trọng Nghĩa  -  RFI

Đăng ngày: 16/02/2021 - 14:42

https://www.rfi.fr/vi/qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/20210216-trung-qu%E1%BB%91c-v%C6%B0%E1%BB%A3t-m%E1%BB....C3%A2u-%C3%A2u

 

Thống kê chính thức của Liên Hiệp Châu Âu vừa xác nhận vào hôm qua, 15/02/2021: Trong năm 2020, Trung Quốc đã lần đầu tiên vượt Mỹ để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của EU. Kết quả này đã có được nhờ Bắc Kinh biết lợi dụng đại dịch Covid-19, nhanh chóng khôi phục các hoạt động kinh tế, trong lúc Mỹ và Châu Âu vẫn bị lún trong khó khăn.

 

https://s.rfi.fr/media/display/cc0b881a-695c-11eb-917a-005056bf87d6/w:980/p:16x9/2021-01-18T103839Z_1227061680_RC2AAL9VRJ5Z_RTRMADP_3_CHINA-ECONOMY-GDP%20%281%29.webp

Thùng hàng và xe tải tại cảng nước sâu Dương San (Yangshan), Thượng Hải, Trung Quốc, Ảnh chụp ngày 19/10/2020. REUTERS - ALY SONG

 

Trong bản báo cáo công bố ngày 15/02, Cơ Quan Thống Kê Châu Âu Eurostat ghi nhận là trong năm 2020, tổng giao dịch trao đổi thương mại hai chiều, giữa Liên Âu và Trung Quốc, đạt mức 586 tỷ euro, so với 555 tỷ euro trong giao dịch với Mỹ.

 

Trong một thông cáo, Eurostat xác nhận: “Trong năm 2020, Trung Quốc đã trở thành đối tác chính của Liên Hiệp Châu Âu”.

 

Theo ghi nhận của hãng tin Pháp AFP, nếu EU đã vượt qua Nhật Bản để trở thành đối tác thương mại số một của Trung Quốc kể từ năm 2004, thì đây là lần đầu tiên xảy ra điều ngược lại, nghĩa là Bắc Kinh soán ngôi của Washington trong tư cách bạn hàng quan trọng nhất của Bruxelles.

 

 

Thâm thủng thương mại với Trung Quốc nặng nề thêm

 

Đi vào chi tiết, xuất khẩu của EU sang Trung Quốc đã tăng 2,2% lên mức 202,5 tỷ euro, trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc đã vọt lên với tỷ lệ 5,6% thành 383,5 tỷ euro. Trong khi đó, thì xuất khẩu của Liên Âu qua Mỹ lại giảm 13,2% và nhập khẩu từ Mỹ cũng giảm 8,2%.

 

Một hệ quả rõ rệt: Thâm hụt thương mại của EU với Trung Quốc ngày càng trầm trọng thêm, từ âm 164,7 tỷ euro năm 2019 đã sâu thêm thanhf âm 181 tỷ vào năm ngoái.

Theo AFP, sau khi bị tác hại nặng nề trong quý 1 năm 2020 do đại dịch Covid-19 bùng lên tại Vũ Hán, kinh tế Trung Quốc đã vươn dậy trở lại mạnh mẽ với chỉ số tiêu thụ nội địa vào cuối năm ngoái thậm chí đã vượt mức của năm 2019.

 

Đà khôi phục kinh tế nhanh chóng đã làm tăng mức sản phẩm nhập khẩu từ châu Âu, đặc biệt là ôtô và hàng xa xỉ, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc sang châu Âu được hưởng lợi nhờ nhu cầu thiết bị y tế và điện tử tăng đột biến.

 

Trong số 10 đối tác thương mại chủ chốt của Liên Hiệp Châu Âu trong năm 2020, đứng sau Trung Quốc và Hoa Kỳ là Anh Quốc, hiện không còn là thành viên EU, tiếp theo là Thụy Sĩ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, Na Uy, Hàn Quốc và Ấn Độ.

 

                                                    ***

 

CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN

PHÂN TÍCH

Liên Hiệp Châu Âu-Trung Quốc : Đầu tư vẫn lấn át nhân quyền

CHÂU ÂU - TRUNG QUỐC

Âu châu và Trung Quốc họp thượng đỉnh với hy vọng khắc phục những bất đồng khó vượt qua

TẠP CHÍ KINH TẾ

2021, vận may của Trung Quốc

 

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats