Văn Biển
26/06/2018
Có
bao giờ anh nghĩ tới bi kịch của cụ Hồ không?
Ngay
từ những năm đầu Cách mạng, ông cụ đã nhận phong thánh sớm quá. Chưa kịp làm
người đã vội làm thánh. Làm người khó hơn chứ. Nếu hồi những năm đầu Cách mạng,
Tố Hữu làm cả mấy chục bài thơ ca ngợi ông cụ như một vị cha già dân tộc lúc
ông cụ mới ngoài năm mươi, như một vị thánh sống, lẽ ra ông cụ gọi nhà thơ tới
cảm ơn, nhưng nói chú hãy để cho bác làm người, sống một cuộc sống bình thường.
Tại
sao lại cấm cụ làm con người bình thường. Lãnh tụ cũng là con người như ai. Bi
kịch của cụ, trước hết là bi kịch của người chồng, người cha. Tại sao ông cụ
không được có một gia đình bình thường. Có vợ, có chồng như tất cả mọi người. Nỗi
đau của ông cụ là có vợ không được nhận, đau hơn có con cũng không được nhận là
con. Tội nghiệp đứa bé. Không bằng đứa con của một người dân bình thường.
Lúc
cô Xuân có con, yêu cầu ông cụ đưa chuyện mình ra công khai. Trong một cuộc họp
Bộ Chính trị, ông cụ đưa vấn đề này ra. Lê Duẩn, Sáu Thọ và một số khác không
tán thành. Lấy biểu quyết. Đa số theo ý Lê Duẩn, Sáu Thọ. Họ muốn đã là thánh,
đã là lãnh tụ phải một lòng hy sinh cho dân tộc và cụ phải chấp nhận. Đứa con
ra đời tên là Thành nhưng chưa bao giờ được công khai nhận mình là con ai. Cô
Xuân sau khi nhiều lần bị Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Quốc Hoàn hiếp dâm, người
đàn bà lẽ ra sẽ là phu nhân vị Chủ tịch nước bị “tai nạn” ô tô chết thảm ở Chèm
(chuyện này lâu nay sách báo đã nói nhiều). Cô em và người bạn gái xuống Thủ đô
ở cùng chị sau đó cũng bị chết theo người chị bất hạnh.
Tại
sao lại có chuyện đau lòng đó? Đó là bi kịch cá nhân. Với tư cách là lãnh đạo
cách mạng, người sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cụ đã phạm những sai lầm
lớn. Trước hết là buộc phải nghe theo chỉ thị của Xitalin, Mao Trạch Đông những
tên giết người không ghê tay thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam.
Cụ ở vào cái thế không vâng lời không được. Người ta không tin, lấy đâu ra vũ
khí và lương thực tiếp tục công cuộc đánh Pháp. Thế là mở màn cuộc Cải cách ruộng
đất đợt một… Có vô vàn chuyện đau lòng xảy ra. Như chuyện con đấu tố bố:
–
Mày có biết tao là ai không?
Người
đàn ông là cha, nhìn cái cột đang chờ mình, run rẩy:
–
Dạ, con là bố của bà ạ.
Dám
cam đoan chuyện này chưa hề có trên hành tinh này kể từ ngày có con người. Ở
đây chỉ nêu ra trường hợp điển hình sau đây…
Vật
tế thần đầu tiên là người đàn bà yêu nước Nguyễn Thị Năm, người có nhiều cống
hiến lớn cho Cách mạng còn non trẻ những năm đầu. Chuyện này thì nhiều người đã
biết. Khi người ta vội vã về kinh báo với cụ, bà Năm bị tuyên án tử hình. Cụ lặng
người đi một lúc rồi run run hỏi: Không tìm được người thay thế sao? Khi lời cụ
được truyền tới tai bọn cố vấn Tàu. Chúng bảo: Hổ đực hay hổ cái đều ăn thịt
người. Và cuối cùng bà Năm – người đàn bà yêu nước bị bắn chết.
Cũng
trong vụ này còn có một dị bản(1). Có người kể. Hôm xử bắn bà Năm ở Đồng Bấm,
cụ và Trường Chinh đi dự. Cụ cải trang che bộ râu, còn Trường Chinh mang kính
đen. Có người làm bài thơ về việc này như sau:
GIỮA
THƠ VÀ ĐỜI
Khi
Bác ngụy trang thành kẻ khác
Đi
xem vụ xử bắn người đàn bà yêu nước
Khi
súng nổ và người đàn bà bất hạnh ngã xuống
Vẫn
không biết vì sao mình bị giết
Không
biết có giọt lệ nào,
chảy
trong lòng Bác.
Khi
người ta bỏ xác người đàn bà yêu nước vào cái hòm chật.
Có
mấy người dẫm lên cho cái xác lọt vào trong.
Bác
có nghe tiếng xương gãy vụn
vang
lên thảng thốt.
Tiếng
oan hồn than khóc,
“hỡi
trời chẳng biết vì sao tôi bị giết”
Liệu
đêm nay về Bác có ngủ yên không?
Câu
Bác từng nói:
“Đừng
bẻ dẫu một cành hoa
Vậy
giữa thơ và đời
có
khoảng cách biệt rất xa…?
“Văn
là người” chẳng lẽ một câu nói vu vơ.
Hôm
sau có một bài trên báo của Đảng lên án tội ác của bà Nguyễn Thị Năm, lên án bọn
địa chủ cường hào ác bá cần phải tiêu diệt. Bài báo ký tên CB. Chỉ có người
trong tòa soạn mới biết tác giả là ai. CB là “của Bác”.
Cụ
để lại di họa suốt mấy chục năm cả sau khi chết đi là cụ đã đưa chủ nghĩa
Mác-Lê vào công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước. Người ta bảo sai một ly
đi một dặm. Cái sai này đã đưa cả đất nước xuống hố. Cho tới bây giờ vẫn chưa
thoát ra được. Trong công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực
dân, người ta có thể so sánh cách làm của cụ với Gandhi ở Ấn Độ và Mandela ở
Nam Phi. Sự so sánh nào cũng khập khiễng nhưng tất nhiên không vì thế mà người
ta không nghĩ tới. Trước hết là họ thoát cho nhân dân các cuộc chiến tranh đẫm
máu, kéo dài mấy chục năm và thoát khỏi Chủ nghĩa Xã hội bị áp đặt cho đất nước.
Hơn
mười năm cuối đời của ông cụ là những trang bi kịch cho tới khi chết. Tập đoàn
Lê Duẩn, Sáu Thọ phe chủ chiến thắng thế khi thông qua Nghị quyết 9. Nghị quyết
về vấn đề Giải phóng miền Nam. Trong lúc đó ông cụ, Võ Nguyên Giáp và một số
người nữa cho là chưa phải lúc. Biểu quyết trong hội nghị, phe chủ chiến thắng
vì đa số là người do Sáu Thọ đưa vào. Mặc dầu ai cũng hiểu cái đa số nhiều khi
không phải là cái đúng, là chân lý. Bi kịch của cụ là không nắm vững vai trò
lãnh tụ của mình cho tới phút chót, để bọn đàn em sắc máu lấn lướt dẫn tới cuộc
chiến huynh đệ tương tàn kéo dài suốt 20 năm.
Nghị
quyết 9 đã cho cụ “nghỉ hưu” một cách nhẹ nhàng. Và từ đó trở đi ông cụ không
còn dự các cuộc họp Bộ Chính trị nữa. Trước đó có một hôm họp Bộ Chính trị, cụ
định phát biểu, Sáu Thọ tới đứng một bên nhắc khéo: Theo cháu, lúc này Bác chỉ
nên nghe, để anh em nói. Cái gì đã buộc người sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa phải vâng lời một thằng đàn em xấc láo? Để ra quân trong trận Mậu Thân(1) người ta đã đưa họ Hồ đi nghỉ ở Bắc
Kinh và đưa họ Võ sang Hungary chữa bệnh.
Như
trên đã nói, những năm cuối đời, ông cụ để bọn đàn em lấn lướt. Nhưng đau đớn
là lúc chết người ta không làm theo di chúc của cụ mà lại xây cho cụ một cái
lăng bề thế và tặng cụ một bài điếu văn thống thiết lại chính do Lê Duẩn đọc đến
trời hôm đó cũng phải khóc. Đó là bi kịch của cụ, bi kịch của một vị thánh. Ông
cụ đã khóc khi Xitalin chết, người ta tin đó là những giọt nước mắt thật. Vậy
có bao giờ ông cụ dành những giọt nước mắt khóc cho mình và cho chính dân tộc
mình không.
Do
môi trường hoạt động, ông cụ trong suốt đời mình phải đóng nhiều vai. Nghề “diễn”
đã ngấm sâu vào trong máu thịt. Và đã vô tình trở thành một diễn viên có nghề,
bất cứ ở vai nào cụ đóng cũng đạt. Cùng với sự thông minh, từng trải, lịch duyệt
tưởng chừng cụ sẽ đạt được tất cả những gì cụ muốn. Nhưng không. Trong một bài
báo gần đây, kỷ niệm 45 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Vũ
Ngọc Hoàng – Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương đã có
phát biểu day dứt: “… Cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc
có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thấy
Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam cũng có
90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại Việt
Nam làm ông chủ, làm quản lý, còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm
ôsin. Nghe mà xót lòng”. Ở cõi bên kia ông cụ liệu có biết được sự thật đau
lòng này không. Trong di chúc để lại ông cụ có viết… Đất nước ta sẽ xây dựng to
lớn đàng hoàng gấp mười lần hôm nay. Trong lúc đó báo chí tư bản có bao giờ đưa
những “tin vui” như báo chí của ta: Năm nay Việt Nam “xuất khẩu” được mấy
nghìn, mấy vạn người lao động sang các nước. Chẳng qua chỉ là một hình thức bán
sức lao động thu ngoại tệ về.
Năm
1961 Pak Chung Hy làm một cuộc đảo chính quân sự, lên làm Tổng thống Nam Hàn. Vị
Tổng thống quân sự này từng khóc trước cảnh nghèo đói của người dân. Trong một
buổi nói chuyện với mấy vạn sinh viên Seoul, ông tuyên bố quốc sách biến Nam
Hàn nghèo nàn trở thành con cọp lớn: Trong 5 năm tất cả người dân Nam Hàn phải
thắt lưng buộc bụng, cắn răng làm việc nếu muốn được sống còn. Phải làm sao
trong vòng 10 năm tới ta tạo được một nền kinh tế đứng đầu Đông Á. Và 20 năm
sau trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới. Sẽ có một số đồng bào không
đồng ý với quốc sách của tôi. Xin các vị hãy hiểu cho rằng tổ quốc quan trọng
hơn quyền lợi cá nhân. Tôi sẽ ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi tuyên bố sẽ
đem bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của dân dầu chỉ một đồng. Tôi sẵn sàng chết cho lý
tưởng đã đề ra.
Và
chắc chủ tịch biết vị Tổng thống, nhà ái quốc vĩ đại đã làm được những điều
mình nói.
Bây
giờ tôi tạm giả sử, tất nhiên lịch sử không bao giờ có chuyện giả sử. Người
Pháp có câu nói rất hay: Nếu chuyện giả sử có thể thực hiện được thì người ta
có thể bỏ cả thành phố Paris vào trong chiếc lọ. Nhưng ta cứ giả sử nếu ngày đó
Pak Chung Hy hay một vị Tổng thống nào khác không mảy may động lòng trước cảnh
nghèo đói cơ cực của người dân mà một mực ra sức rèn luyện quân đội, vác rá đi
xin viện trợ của các nước anh em trong phe thay vì đưa Thanh niên sang các nước
văn minh học tập cái hay cái tốt. Ông ta một mực quyết tâm xua hàng triệu quân
vượt sông Áp Lục giải phóng Triều Tiên thu non sông về một mối như cách làm của
ta, chắc chắn không thể nào có một Hàn Quốc có bộ mặt rạng rỡ đáng tự hào như
hôm nay. Và càng không có chuyện 9 vạn người Hàn Quốc sang ta làm ông chủ, bà
chủ như vị Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương lúc nãy tôi đã nói. Ta giải
phóng được Miền Nam nhưng 40 năm sau đó khoảng 9 vạn người dân sang bên đó làm
ô sin. Đáp số của bài toán đúng sai quá rõ.
Ông
chủ tịch có biết tôi gặp ông trong trường hợp nào không? Trong vụ lở đập năm nọ,
lúc đó tôi đang loi ngoi trong cơn bão lũ cứu các em học sinh thì chợt thấy chủ
tịch cũng ra chống lũ với bà con. Nhìn thấy vị chủ tịch cũng có mặt trong cơn
nguy hiểm, lòng cũng được an ủi đôi chút. Vậy là không đến nỗi: “sống chết mặc
bay”. Sau đó tôi “đi” luôn trong cơn lũ. Lúc nãy tôi vừa về chợt thấy chiếc xe
Thần Chết chở ông, rồi xe dừng lại, ông lên mặt đập, tôi thốt lên: Người tốt thế
sao lại ra đi sớm vậy? Thế là tôi bí mật theo ông… Tôi hỏi thật, trong nước
mình có bao nhiêu vị lãnh đạo được như ông?
Cảm
ơn ông bạn có lời khen. Chuyện này phải hỏi ban Kiểm tra, hoặc ban Tổ chức
Trung ương. Nhưng thật ra cũng khó trả lời. Tốt, xấu thế nào cũng khó nói. Tới
ông Truyền – Tổng Thanh tra Chính phủ lúc về hưu đã có mấy tòa dinh thự thì còn
tin được ai. Ông bạn vừa rồi khen tôi, nhưng lúc đi thăm bếp núc, bữa cơm chiều
mấy nhà, tới trường học tôi đã khóc. Tôi có xứng đáng nhận lời khen của ông
không? Bữa cơm, đời sống của người dân đủ để trả lời.
Được
như ông là quý quá rồi. Chỉ tiếc ông ra đi sớm dân mất nhờ. Chuyện cực khổ đói
nghèo của dân còn do nhiều nguyên nhân lớn lao khác. Đâu phải chỉ mỗi chủ tịch giải
quyết lo toan là được. Có là Thánh. Thôi, chủ tịch tới xe đi. Chắc ông lão đang
sốt ruột chờ tưởng ông chủ tịch còn lưu luyến trần gian trốn ở lại.
Ông
Tư cười. Thôi, chào anh bạn nhé. Hẹn gặp lại anh.
Chúc
Chủ tịch thượng lộ bình an.
Ông
Tư tới bên xe: Xin lỗi để ông chờ lâu. Xin hỏi thật. Ông có nghĩ tôi trốn ở lại
không?
Ông
nói đùa. Tôi thấy ông đi vô thăm từng nhà. Ít thấy ông quan nào thời nay như
ông. Chết chưa phải là hết. Người ta nói không sai. Liệu ông có còn muốn ghé
nơi nào nữa không?
Nếu
được đi khắp thì phải mất cả tháng trời cũng chưa chắc đã hết. Mà cũng chẳng giải
quyết được gì.
Ông
có chịu được gió không, về chiều trời hơi lạnh. Tôi muốn cho xe chạy nhanh một
tý.
Không
sao. Tôi cảm thấy hơi khá hơn. Ông Tư chợt bật cười.
Có
chuyện gì vui làm ông chủ tịch cười.
Nghĩ
tới câu có người vừa rồi mới chúc tôi “thượng lộ bình an”. Nghĩ đã ngồi trên cỗ
xe của Thần Chết mà còn bình an với không bình an nỗi gì.
Thế
mà có đấy ông ạ. Có người chết rồi mà ngàn năm linh hồn vẫn không yên. Thôi ông
nghỉ ngơi đi. Tôi cho xe chạy nhanh đây.
Chiếc
xe phóng nhanh vào bóng hoàng hôn mờ ảo. Bỏ lại xóm làng yêu thương mịt mù tít
tắp phía sau…
___
(1) Đèn cù (Trần
Đỉnh).
(2) Một câu thơ
của Pháp.
(3) Một chiến dịch
lớn được đánh giá là thất bại thảm hại. Người ta kể trong một lần đi chơi ghé
vào trại sáng tác của Hội nhà văn ở Quảng Bá, Lê Duẩn, tác giả chính của cuộc
chiến đẫm máu này hỏi mấy ngưới viết đang có mặt ở trại: các anh đánh giá trận
Mậu Thân như thế nào? Bùi Bình Thi mau miệng: Thưa, thất bại ạ. Lê Duẩn cau mày
lắc đầu: các anh viết văn mà không hiểu chi cả… Rồi ông Ba bỏ ra mấy chục phút
giải thích sự cần thiết phải có chiến dịch này… chắc trong đầu ông Ba cho số
người chết dẫu bao nhiêu không cần phải suy nghĩ. Mấy nhà văn lúc đó sợ hãi im
như thóc. Mãi mấy chục năm sau, trước lúc chết nhà thơ Chế Lan Viên để lại
trong tập Di cảo mấy câu thơ về trận Mậu Thân đẫm máu (Xem chương: Ngọc
Hoàng bên cỗ quan tài lạ. Trang 317).
_____
Bài
viết trên trích từ sách Que Diêm Thứ Tám, của tác giả Văn Điển gửi tới Tiếng
Dân.
Mời
đọc lại các bài trước:
No comments:
Post a Comment