Damir Marusic - The American Interest
Biên dịch: Văn
Cường
Thứ
sáu, 22 Tháng 6 2018 10:54
Bản thân Tổng thống
Trump chỉ là hiện thân đầy đủ nhất của các xu hướng và tình cảm đã âm ỉ ở Mỹ
một thời gian. Mỹ đang ngày càng trở thành một quốc gia “bình thường”, mất dần
ý thức về chủ nghĩa ngoại lệ và sứ mệnh của họ - một khuynh hướng đã đạt đến đỉnh
điểm trong một thập kỷ dài sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Tổng thống Trump
Việc
Trump rời bỏ thỏa thuận Iran cho thấy cách thức ra quyết định chính sách đối
ngoại về cơ bản đã thay đổi sau năm 2008.
Quyết
định của Tổng thống Mỹ Donald Trump rút khỏi Kế hoạch hành động chung toàn diện
(JCPOA) (hay còn gọi là Thỏa thuận Iran) vào ngày 8/5 vừa qua đã làm dấy lên
một loạt suy đoán đầy giận dữ giữa các học giả và chuyên gia về tác động của
động thái này. Có nhiều biến số đang diễn ra. Các đồng minh châu Âu của Mỹ đều
cảm thấy bất an, trong khi Israel, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE) và
Saudi Arabia đã chào đón tuyên bố này trong hân hoan. Người Iran thì giận dữ,
nhưng nền kinh tế của họ đang trong tình trạng tồi tệ, phần lớn là vì họ đang
bị dàn mỏng ở Syria. Nga một mặt có thể hưởng lợi từ quan hệ rạn nứt xuyên Đại
Tây Dương đang dần bộc lộ và giá dầu tăng đột biến; mặt khác, họ phải đối mặt
với viễn cảnh bị mắc kẹt trong một cuộc xung đột công khai giữa Iran và Israel
ở Syria, với số phận còn chưa ngã ngũ của nhân vật ủy nhiệm quý giá của họ là
Assad, người mà Nga đã đầu tư quá nhiều máu và của cải. Bên lề của toàn bộ
những điều này là Tổng thống Trump, theo tất cả những thông tin thu thập được,
đang thích thú với tính khó đoán của chính mình.
Tác
giả sẽ để lại những tiên liệu cụ thể về cái kết của câu chuyện này cho những
tâm hồn gan dạ và chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, thật thú vị khi quan sát quyết
định từ bỏ JCPOA trong một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn. Tác giả cho rằng nó
cho thấy vai trò mới của Mỹ trên sân khấu thế giới – với tư cách là một bên
tham gia “thất thường” – đã được củng cố. Đây không đơn giản là kết quả của
việc Tổng thống Trump lên nắm vị trí cao nhất, hay bất kỳ sản phẩm nào của ý
thức hệ theo kiểu Trump, dù hiểu theo cách nào. Bản thân Tổng thống Trump chỉ
là hiện thân đầy đủ nhất của các xu hướng và tình cảm đã âm ỉ ở Mỹ một thời
gian. Mỹ đang ngày càng trở thành một quốc gia “bình thường”, mất dần ý thức về
chủ nghĩa ngoại lệ và sứ mệnh của họ - một khuynh hướng đã đạt đến đỉnh điểm
trong một thập kỷ dài sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc (khoảng năm 1989-2003).
Nhưng
một quốc gia “bình thường” – đặc biệt là một nền dân chủ khó kiểm soát – vẫn là
cường quốc chiếm ưu thế trên thế giới, thì có lẽ không phải điều gì đáng ăn
mừng. Trong vòng vài năm tới, vai trò của Mỹ trên thế giới sẽ ít liên quan tới
bất kỳ tập hợp các giá trị hay ý thức hệ bao quát nào rõ ràng. Hành vi của nước
này sẽ là sản phẩm của một nền chính trị trong nước ngày càng dân chủ hóa và
cạnh tranh khốc liệt. Điều này không phải để nói rằng người ngoài sẽ không thể
dự đoán hành vi của họ. Ngược lại, các “trường phái” tư duy chính sách đối
ngoại của Walter Russell Mead – cái gọi là các phái Jackson, Jefferson, Wilson
và Hamilton – phần lớn vẫn tồn tại và còn giá trị. Điều đã thay đổi ở bên trong
nước Mỹ là khả năng hòa hợp một cách có ý nghĩa những tầm nhìn này và định hình
một cách tiếp cận dài hạn hơn với thế giới. Chính sách đối ngoại đang trở thành
một môn thể thao bạo lực giữa các phe phái. Kết quả là thiếu một mục tiêu chặt
chẽ, và nhận thức ngày càng tăng giữa cả các đồng minh lẫn địch thủ rằng Mỹ vốn
không đáng tin cậy.
Tất
nhiên, đúng là Mỹ chưa bao giờ có một cách tiếp cận hoàn toàn ổn định với thế
giới. Nhận định dài như một cuốn sách của Stephen Sestanovich, cho rằng Mỹ đang
dao động giữa “chủ nghĩa tối đa” và “chính sách thu mình” ít nhất kể từ năm
1945, là một trong những cách chắt lọc tinh tế một hiện tượng mà nhiều nhà sử
học về Chiến tranh Lạnh đã tốn giấy mực trong nhiều năm. Tuy nhiên các mục tiêu
cuối cùng của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh có thể dễ dàng nhận ra và thấu hiểu,
ngay cả nếu giới chính sách đối ngoại của Mỹ tranh cãi một cách cay đắng về
cách tốt nhất để theo đuổi chúng. Ở các cấp cao trong giới học thuật và chính
phủ, những người như George Kennan hiểu rằng Chiến tranh Lạnh là một sự tiếp
nối và phóng tác của đại chiến lược biển mang tính bước ngoặt thế kỷ của Alfred
Thayer Mahan về bá quyền và sự đàn áp.
Họ
có thể lúng túng và loạng choạng trên con đường đi đến chiến thắng, nhưng trong
suốt Chiến tranh Lạnh, Mỹ nhìn chung đã đi theo một hướng. Các lựa chọn chiến
lược của họ được xây dựng dựa trên một sự đồng thuận về việc truyền bá rộng rãi
các giá trị của Mỹ và đối đầu với Liên Xô. Sự biến mất sau một đêm của Liên Xô
vào năm 1991 được coi là một chiến thắng, nhưng nó cũng khởi động một quá trình
được mô tả đúng đắn nhất là một dạng “mộng du” trong chính sách đối ngoại. Các
nhà vạch kế hoạch và các chiến lược gia đã gắng sức áp dụng những quy tắc đã
dẫn dắt Mỹ trong gần một thế kỷ để bước vào một thế giới đã mất đi câu chuyện
tổ chức then chốt.
Năm
1992 đã chứng kiến nỗ lực đầu tiên theo hướng này: Paul Wolfowitz, làm việc cho
Bộ trưởng Quốc phòng Dick Cheney, đã giám sát việc soạn thảo một văn kiện chiến
lược được nhằm để vạch ra một tiến trình cho đất nước trong thập kỷ tiếp theo.
Nó đã nhanh chóng bị rò rỉ cho tờ New York Times và gây ra một sự ồn ào quá mức
trong giới truyền thông. Được nhìn nhận trong bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn của
đại chiến lược Mỹ, văn kiện này chỉ là lời tuyên bố lại các nguyên tắc cơ bản
của Mahan với ngôn từ sắc bén: Không một cường quốc bá quyền cạnh tranh nào
được phép xuất hiện ở bất cứ đâu trên thế giới. Nhưng kể từ khi bị rò rỉ sau
Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, mà vào lúc đó được coi là hình mẫu để giải
quyết các vấn đề như Saddam Hussein, văn kiện của Wolfowitz được cho là đã thể
hiện đầy ngoạn mục sự kiêu ngạo của Mỹ - một nỗ lực thô lỗ nhằm phá vỡ một sự
trình diễn sôi nổi của bài hát “Kumbaya” ngay khi nó đang vào đà.
Giữa
những tiếng la ó của công chúng, bản dự thảo đã nhanh chóng được các nhân viên
của Cheney ỉm đi và viết lại thành thứ gì đó có tính xoa dịu hơn. Nhưng ngay cả
tại thời điểm sôi sục nhất, văn kiện của Wolfowitz cũng không giải quyết được
cuộc khủng hoảng ở trung tâm chính sách đối ngoại của Mỹ dưới cái bóng của
Chiến tranh Lạnh. Năm 1992, dư luận chính thống bị choáng váng bởi ý tưởng rằng
ai đó trong giới tinh hoa chính sách đối ngoại Mỹ đã che giấu điều có vẻ như là
những tham vọng đế quốc thầm kín. Ngẫm lại, vấn đề thực sự là ngay cả khi tham
vọng nhất, Mỹ vẫn cảm nhận được cái bóng của Liên Xô ngay cả khi nó đã biến
mất.
Theo
lời kể của Sestanovich, cả George H.W.Bush và Bill Clinton đều là những tổng
thống “pha trộn”: Bush cho thấy sự nhiệt tình theo “chủ nghĩa tối đa” trong
cách ông xử lý việc thống nhất nước Đức và theo đuổi cuộc can thiệp ở Panama và
Kuwait, nhưng lại yên vị với tư tưởng “thu mình” vào cuối nhiệm kỳ của mình;
Clinton bắt đầu như là một nhà lãnh đạo “nội bộ” với tầm nhìn hướng vào trong
nước, nhưng vào nhiệm kỳ thứ 2 đã can dự gần như điên cuồng ra bên ngoài. Và
trong khi điều này là sự thoát ra khỏi tiền lệ của Chiến tranh Lạnh (trong đó
các đời tổng thống thường có xu hướng gắn với một hướng giải quyết), sự dao
động theo quan sát của Sestanovich không lột tả hết được sự nhất quán sâu sắc
hơn: Êkíp chính sách đối ngoại của Bill Clinton đã dành 8 năm triển khai việc
diễn đạt một cách lý tưởng hơn, mềm mỏng hơn về vai trò của Mỹ trên thế giới
mà, nếu tước bỏ các chi tiết của nó, sẽ chỉ thể hiện sự thay đổi trong giọng
điệu.
Kế
hoạch cũ về bá quyền và sự đàn áp – lần đầu được Mahan đưa ra, sau đó là Kennan
và Wolfowitz – hiện được hợp thức hóa thông qua chủ nghĩa đa phương và toàn cầu
hóa, sao cho luôn đảm bảo sự chi phối và lãnh đạo của Mỹ trong các thể chế toàn
cầu. Nhà đàm phán thương mại của Clinton, Charlene Barshefsky, đã châm biếm
rằng toàn cầu hóa kinh tế đang khiến cho các liên minh quân sự trở nên lỗi
thời. Tuy vậy (hoặc kết quả là), NATO đã mở rộng về phía Đông, khéo léo chuyển
mình từ một liên minh an ninh tập thể thành một phương tiện để củng cố các giá
trị, tầm ảnh hưởng và phương thức hành động của phương Tây. Việc tiếp tục tấn
công và áp đặt các vùng cấm bay ở Iraq được biện minh bằng việc đưa ra các nghị
quyết hiện thời của Liên hợp quốc. Đối với cuộc can thiệp vào Kosovo, Clinton
thậm chí không để tâm đến những chi tiết tinh tế đó. Trước khi sắp mãn nhiệm,
ông đã lặp lại cụm từ đáng ghi nhớ của Ngoại trưởng Madeline Albright mọi lúc
mọi nơi: Mỹ là “quốc gia không thể thiếu”.
Tuy
nhiên, việc rõ ràng thiếu vắng một nhiệm vụ tổng quát đã bao trùm lên mọi thứ.
Lập luận của Albright trước Colin Powell về cuộc can thiệp vào Bosnia – “Khả
năng quân sự đỉnh cao mà ông lúc nào cũng nhắc đến có nghĩa lý gì khi chúng ta
không thể dùng đến nó?” – đã nắm bắt thập kỷ này một cách hoàn hảo. Thời gian
nắm quyền của Clinton có đặc trưng là cuộc kiếm tìm ý nghĩa và đường hướng. Khi
Liên Xô tan rã, Saddam Hussein và Slobodan Milosevic cũng sẽ phải làm như vậy.
Khi
những kẻ không tặc buộc 2 chiếc máy bay chở khách đâm thẳng vào tòa tháp đôi
vào năm 2001, cả Dick Cheney và Paul Wolfowitz đều đang trong chính phủ. Và với
Chiến lược an ninh quốc gia nhanh chóng được đưa ra vào năm 2002, “cuộc chiến
chống khủng bố toàn cầu” đã ra đời. Văn kiện này là một nỗ lực khác nhằm thiết
lập một tiến trình vững chắc cho một chính sách đối ngoại thiếu đường lối về
mặt tinh thần của Mỹ, truyền bá sự hân hoan chiến thắng mang tính dân chủ trong
những năm của Clinton, và tinh thần kiểu Mahan trong bản dự thảo năm 1992. Tuy
nhiên, vai trò mà trước đây bị Liên Xô bỏ trống cuối cùng cũng đã được lấp vào
– bởi “các mạng lưới ngầm gồm những cá nhân có thể đưa sự hỗn loạn lớn và đau
khổ đến đất nước của chúng ta với phí tổn còn ít hơn cả chi phí để mua một
chiếc xe tăng”.
Chưa
đầy một năm sau, rất nhiều xe tăng Mỹ đã lăn bánh tiến vào Iraq để lật đổ chế
độ của Saddam Hussein.
Trong
khi đó, ở Chicago, một tháng sau khi Chiến lược an ninh quốc gia của Bush được
công bố và một ngày sau khi một nghị quyết cho phép sử dụng sức mạnh quân sự ở
Iraq được đưa ra trước Quốc hội, một thượng nghị sĩ trẻ đã phát biểu tại một
cuộc biểu tình chống chiến tranh đã nhấn mạnh: “Tôi không phản đối tất cả các
cuộc chiến tranh. Tôi phản đối những cuộc chiến tranh ngu ngốc”.
Và
ở thành phố New York, một sinh viên theo học chương trình thạc sĩ chuyên ngành
nghệ thuật thậm chí còn trẻ hơn, người đã chứng kiến cảnh tòa tháp đôi sụp
xuống, đã quyết định rằng anh đã chọn sai con đường nghề nghiệp. Anh ta đã trở
thành cánh tay phải cho cựu Chủ tịch Ủy ban đối ngoại thượng viện Lee Hamilton,
đầu tiên là tại Trung tâm Wilson ở Washington, DC, sau đó phục vụ với tư cách
nhân viên của Hamilton trong Ủy ban 11/9. Cuối cùng, trong nhóm nghiên cứu về
Iraq, người đó đã nghiên cứu tìm cách giải thoát nước Mỹ khỏi cuộc chiến tranh
xấu xí và không cần thiết của mình “với lòng tự trọng”.
Tổng
thống Barack Obama và Phó Cố vấn an ninh quốc gia về thông tin chiến lược Ben
Rhodes đại diện cho một thế hệ đang nổi lên được định hình bởi chấn thương do
Iraq gây ra. Chúng ta sẽ không có một bức tranh đầy đủ hơn về các động lực bên
trong nhiệm kỳ tổng thống của Obama cho đến khi có nhiều hồi ký hơn xuất hiện,
nhưng những gì chúng ta đã có từ các báo cáo và phỏng vấn báo chí cho thấy một
bước đột phá quan trọng thoát khỏi quá khứ. Obama đã dành 3 tháng trong năm
2009 để chống lại toàn bộ đội ngũ cố vấn an ninh quốc gia kỳ cựu của ông, những
người ủng hộ mở rộng cam kết của Mỹ trong cuộc chiến tại Afghanistan. Cuối cùng
ông cũng đồng ý gửi thêm quân, nhưng đặt ra một khung thời gian chặt chẽ cho
việc rút quân cuối cùng: Toàn bộ số binh lính bổ sung sẽ về nước trước năm
2012. Một cảnh tương tự cũng diễn ra đối với những lời kêu gọi can thiệp vào
Libya, với việc Obama cuối cùng – và bất đắc dĩ – phải đồng ý “lãnh đạo từ phía
sau” với tư cách một liên minh phương Tây lật đổ Muammar Qaddafi. Cuối cùng,
tại Syria, Obama đã chiến thắng đội ngũ cố vấn và ý kiến của giới tinh hoa
chính sách đối ngoại của ông nói chung – “những kẻ khoác lác”, như Rhodes
thường gọi họ một cách khinh thường – và cố gắng giữ can dự của Mỹ trong xung
đột này ở mức tối thiểu.
Việc
bác bỏ các cuộc chiến tranh “ngu ngốc” không phải là toàn bộ câu chuyện trong
nhiệm kỳ tổng thống của Obama. Ông đã kiên trì theo đuổi thỏa thuận Iran như là
một chiến lược được che đậy sơ sài nhằm giảm sự can dự của Mỹ nhiều hơn ở vùng
Đại Trung Đông trong trung hạn. Ông đã tìm cách chuyển trách nhiệm về Nga (một
“cường quốc khu vực” đang bộc lộ sự yếu đuối) cho các nước châu Âu và nói đãi
bôi về chính sách “xoay trục sang châu Á” mà cuối cùng ông cũng không tài trợ
đúng mức. Sestanovich không sai khi xác định Obama là một vị tổng thống theo
hướng “thu hẹp” kinh điển theo hình mẫu của Eisenhower và Nixon. Nhưng nếu chỉ
nghĩ về Obama theo những thuật ngữ này thì chúng ta đã bỏ lỡ một thay đổi lớn
lao quan trọng đã diễn ra trong nhiệm kỳ của ông.
Trong
suốt Chiến tranh Lạnh, tất cả các chính quyền đều miễn cưỡng về việc làm thế
nào để thoái thác những di sản của chính quyền tiền nhiệm. Yếu tố gây cản trở
là sự tồn tại của Liên Xô. Trong giai đoạn giữa sự biến mất bất ngờ của Liên Xô
và sự kiện 11/9, không cần bất kỳ sự thoái thác nào; các cuộc can thiệp ở nước
ngoài của George H.W. Bush và Bill Clinton nhìn chung đều thành công, không tốn
kém và kết quả là được người dân ủng hộ. Các cử tri đều hài lòng, và họ chúc
phúc cho bất cứ điều gì giới tinh hoa nói họ định làm. George W. Bush hẳn đã
bước vào nhiệm kỳ của mình với lời phàn nàn về sự tích cực thái quá của Clinton
trên sân khấu thế giới, nhưng ông gần như chấp nhận những tiền đề khái quát về
tính không thể thiếu của Mỹ và tính phổ quát của các giá trị Mỹ mà 10 năm “mộng
du” đã cố ý để lộ ra. Thực tế rằng sự kiện 11/9 đã mang lại một sự chuyển hướng
rõ ràng ở phía Bush, từ một “người bảo thủ đầy lòng trắc ẩn” chỉ tập trung vào
các vấn đề trong nước thành một người vô cùng hăng hái với tinh thần truyền
giáo của Mỹ, cho thấy ông gần như không khác gì những người tiền nhiệm của
mình.
Iraq
là thảm họa lớn đầu tiên sau Chiến tranh Lạnh, và nó đã dẫn đến chính sách “thu
hẹp” – như Hàn Quốc và Việt Nam trước đây. Nhưng nếu không có những chỉ trích
về Chiến tranh Lạnh, nó cũng có nghĩa là không có tính hợp pháp vốn có trong
các chính sách thay thế được vị tổng thống “thu hẹp” này đề xuất. Người ta có
thể đồng tình hoặc không đồng tình với những lựa chọn mà Obama đưa ra, nhưng
không còn có thể nói chắc tương tự về nguyên nhân căn bản đằng sau sự phán xét
của ai đó. Vẫn không có khuôn khổ nào lớn hơn để dựa vào đó chúng ta có thể
đánh giá thành tích của chính sách này hay chính sách kia, vì Mỹ vẫn không có
mục tiêu chính sách đối ngoại cụ thể trong một thế giới được người dân của họ
coi là hoàn toàn hợp pháp.
Những
lời kêu gọi nhân đạo, uy tín, tầm ảnh hưởng khu vực và sự tín nhiệm lớn hơn đều
đang đối mặt với Obama về Syria. Những lời buộc tội rằng ông đang bán đứng các
đồng minh giá trị ở Trung Đông và việc khiến những hỗn loạn hiện nay trở nên
sâu sắc hơn đã thúc giục ông dấn sâu vào thỏa thuận Iran. Nhưng Obama đã nhún
vai, không hề nao núng và đáng chú ý là không lợi dụng hay trả giá cho các
chính sách của ông. Với một chân đã bước ra khỏi cửa, sự ủng hộ trong nước của
ông đối với chính sách đối ngoại gần như ngang bằng, chia tách rõ ràng theo phe
phái. Xét cho cùng, chính trị là tất cả những gì có ý nghĩa tại nước Mỹ ngày
nay.
Khi
tác giả lắng nghe Donald Trump phát biểu tranh cử vào tháng 10/2016, tác giả
nhớ rằng mình đã lưu ý đến giọng điệu chua cay Trump dùng để tấn công sự ngu
ngốc của giới tinh hoa Mỹ khi xử lý vấn đề chính sách đối ngoại. Tất nhiên ông
đã trực tiếp tấn công Hillary Clinton và các đề xuất của bà, nhưng ông đã liên
hệ hồ sơ thành tích của bà với lịch sử lâu dài hơn và đáng buồn về sự can dự
của Mỹ ở Trung Đông. Và ngoài bản thân sự tấn công này, tác giả bị ấn tượng bởi
cách bài phát biểu đã thu hút đám đông như thế nào, nhiều người trong số đó là
cựu chiến binh hoặc gia đình của các cựu chiến binh trong những cuộc chiến thất
bại mà ông đang lên án. Ngữ điệu gay gắt hơn, giọng điệu kịch liệt hơn. Nhưng
thực chất lại khiến tác giả nghĩ đến Obama. Kể từ lúc đó, càng có nhiều điểm
tương đồng hơn. Cuối cùng Trump cũng bị các cố vấn của ông ép buộc phải miễn
cưỡng tăng quân ở Afghanistan. Và giống như Obama, ông đã tiếp tục nhấn mạnh
rằng sự tham gia của Mỹ ở Syria tối đa chỉ dừng ở mức bên lề.
Nhưng
những khác biệt được thể hiện rõ ràng hơn, với thỏa thuận Iran là một ví dụ cụ
thể. Những người ủng hộ cho mỗi vị tổng thống buộc tội cho người kia là đã bỏ
rơi các đồng minh. Nhưng đồng minh nào: châu Âu hay Trung Đông? Cả 2 vị tổng
thống đều cam kết “không làm những điều ngu ngốc”. Nhưng điều gì ngu ngốc hơn:
mạo hiểm tiến hành chiến tranh phòng ngừa với Iran hiện nay mà có thể dễ dàng
bị cuốn vào một xung đột lớn trong khu vực, hay đánh cược vào việc thúc đẩy một
sự sắp xếp lại trong khu vực, mà cuối cùng có thể bao gồm cả một Iran vũ trang
hạt nhân, với hi vọng giúp Mỹ thoát khỏi Trung Đông?
Phải
thừa nhận những điều này đã được đơn giản hóa quá mức, nhưng chúng nhằm minh
họa cho một luận điểm: Nếu không có câu chuyện lớn hơn ràng buộc Mỹ trong một
sứ mệnh duy nhất, những bất đồng chính sách đối ngoại đã biến thành cuộc tranh
cãi phe phái ầm ĩ không tài nào phân xử. Xét cho cùng, các chuyên gia có thể
tranh luận ủng hộ cả 2 bên trong bất cứ vấn đề nào trong số này. Và dù sao đi
nữa, các chuyên gia không có khả năng giúp ích gì, vì chính xác là họ bị buộc
tội lên kế hoạch và tiếp tay cho hiện trạng, mà cả Obama lẫn Trump đều đắc cử
bằng cách công khai chỉ trích người kia theo cách của họ.
Phần
lớn trong động cơ rộng lớn hơn của Obama/Trump đã được Adam Garfinkle trình bày
một cách hùng hồn vài tuần trước. Ông viết: “Thực tế rằng 2 vị tổng thống này
đến từ 2 điểm khác nhau trên quang phổ chính trị Mỹ cho thấy họ có thể đại diện
cho một ‘mức độ bình thường’ mới.” Tác giả cho rằng điều này rất có thể là
đúng. Nhưng đồng thời, “mức độ bình thường” mới đó không nhất thiết phải báo
trước một sự đồng thuận mới xuất hiện về chủ nghĩa biệt lập. Thay vào đó, chúng
ta có thể hướng đến một giai đoạn dân chủ và bất hòa một cách khác thường,
trong đó các vấn đề an ninh quốc gia được thảo luận theo những thuật ngữ ngày
càng mang tính phe phái.
Và
nhắc đến việc theo phe phái, ý của tác giả là sự tùy tiện. Hãy xem xét sự tương
đồng trong nước: Ngay dù mức thâm hụt ngân sách ngày càng tăng không thể tránh
được cho thấy một mối đe dọa đối với tương lai của đất nước về lâu dài, thực tế
rằng một cuộc bầu cử có thể được hoãn lại quá giới hạn thời gian cũng đồng
nghĩa với việc cả 2 bên đều lịch thiệp sử dụng nó như một chiếc dùi cui chống
lại đối thủ của mình nhưng sau đó lại theo đuổi các ưu tiên của họ trong khi
nắm quyền. Các chuyên gia được tập hợp để hỗ trợ trong từng tình huống, nhưng
điều đó không thực sự quan trọng. Nhìn chung, các lợi ích chính trị thấp đến mức
không thể duy trì, và cái giá phải trả cho việc thiếu nghiêm túc, nếu có, sẽ bị
các lợi ích chính trị ngắn hạn lấn át.
Để
khẳng định điều đã rõ ràng, tất cả điều này có thể chấm dứt nếu và khi một
thách thức phù hợp bên ngoài nảy sinh, vừa tạo ra một câu chuyện thống nhất để
tập hợp cử tri, vừa chấn chỉnh các chính trị gia và các nhà hoạch định chính
sách đi vào một phân tích thiết thực hơn về những gì cấu thành nên lợi ích quốc
gia. Nhiều người ngày nay nhìn vào Trung Quốc và tưởng tượng và hi vọng, điều
gì như vậy sẽ xảy ra, có lẽ sớm hơn thay vì muộn hơn.
Đồng
thời, có lẽ tốt nhất là không nên quá lạc quan về các cuộc đấu tranh “mang tính
định nghĩa” sẽ giải quyết hộ chúng ta các vấn đề của chúng ta. Lịch sử thường
không diễn biến một cách trình tự như vậy – nó tương đồng chứ không lặp lại. Và
đừng quên rằng chính sự nhiệt tình đối với cuộc đấu tranh “mang tính định
nghĩa” đã mang lại cho chúng ta cuộc chiến tranh Iraq, mà đã góp phần không nhỏ
giải thích lý do tại sao cuộc tranh cãi về chính sách đối ngoại của chúng ta
lại diễn ra theo cách này. Có lẽ chúng ta nên cố gắng hơn nữa, dù với hi vọng
mong manh, để củng cố sự đồng thuận đối với các điều kiện riêng của chúng ta.
Damir
Marusic là tổng biên tập trang The American Interest. Bài viết được đăng trên The American Interest.
Văn
Cường (gt)
No comments:
Post a Comment