26.06.2014
Kiều
hối là ngoại tệ chuyển về Việt Nam do những người sinh sống ở nước ngoài như
những người tị nạn Cộng Sản hay những người làm việc ở nước ngoài như những
công nhân xuất khẩu lao động. Kiều hối giúp cải thiện mức sống của người
dân và giữ một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế sở tại.
Bài
phân tách này sẽ lần lượt trình bầy về một số vấn đề như số lượng kiều hối Việt
Nam nhận được và tầm quan trọng của kiều hối trong nền kinh tế Việt Nam. Ngoài
ra, bài viết này cũng sẽ phân tách lý do giúp cho số lượng kiều hối gia tăng và
việc sử dụng kiều hối ở Việt Nam.
Số
lượng kiều hối
Số
lượng kiều hối tăng không ngừng trong hơn 10 năm qua, từ 1.3 tỉ Mỹ kim vào năm
2000 lên đến 11 tỉ Mỹ kim vào năm 2013, ngoại trừ năm 2009 bị sút giảm 11.5% so
với năm trước do cuộc khủng hoảng tài chánh 2008-2009, theo báo cáo của Ngân
Hàng Thế Giới. Trong ba năm vừa qua, số lượng kiều hối vào Việt Nam tăng khoảng
1 tỉ Mỹ kim mổi năm. Theo một dự đoán của chi nhánh Ngân Hàng Nhà Nước tại Sài
Gòn, kiều hối sẽ có thể gia tăng 20% trong năm 2014. [1] Hiện nay có
4.5 triệu người Việt đang sinh sống tại trên 100 quốc gia trên thế giới. Ngoài
ra có khoảng nửa triệu công nhân Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đặc biệt
là Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản và Nam Triều Tiên, qua chương trình xuất khẩu
lao động.
Phần
lớn số lượng kiều hối Việt Nam nhận được phát xuất từ Hoa Kỳ, Canada, và Pháp
và chuyển về cho những người sanh sống ở thành thị, đặc biệt là Sài Gòn. [2] Một
nghiên cứu khác cho thấy rằng khoảng trên 50% số lượng kiều hối gửi về Việt Nam
phát xuất từ Hoa Kỳ. [3] [4]
Phần
đông công nhân xuất khẩu lao động xuất thân từ thôn quê. Do đó, số lượng kiều
hối do công nhân gửi từ các nước Á châu về thôn quê tương đối ít so với số
lượng kiều hối do Việt kiều chuyển từ các nước Tây phương về thành thị. Nhưng
số lượng này có khuynh hướng gia tăng. Các vùng nhận kiều hối được mở rộng đến
các tỉnh nhỏ và khu vực thôn quê nơi tập trung gia đình có công nhân xuất khẩu
lao động như Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, v.v.
Tầm
quan trọng của kiều hối
Trong
12 nước có số lượng kiều hối từ 10 tỉ Mỹ kim trở lên vào năm 2013, Ấn Độ dẫn
đầu với 70 tỉ Mỹ kim, tiếp theo là Trung Quốc với 60 tỉ Mỹ Kim, Philippines với
25 tỉ Mỹ Kim. Việt Nam đứng hạng 10 với 11 tỉ Mỹ kim, tương đương khoảng 7.1 %
của tổng sản phẩm nội địa, bằng 1/3 số lượng ngoại hối dự trữ của Việt Nam vào
năm 2013 (33 tỉ Mỹ kim), lớn hơn cả vốn đầu tư nước ngoài (10.5 tỉ Mỹ kim) và
tiền viện trợ chinh thức để phát triển ODA thực (net Official Development
Assistance) (4.1 tỉ Mỹ kim cho năm 2012). [5] Số lượng
kiều hối xem ra nhập vào Việt Nam đều đặn hơn là vốn đầu tư nước ngoài. Kiều
hối là một nguồn ngoại tệ quan trọng, một số tiền viện trợ lớn không phải hoàn
lại và không phải chịu một chi phí nào cả.
Vào
năm 2011, cán cân vãng lai (current account balance) của Việt Nam từ tình trạng
thiếu hụt lần đầu tiên trở nên trở nên thặng dư với con số khiêm nhường là 236
triệu Mỹ kim. Con số này đã tăng lên đến 2.6 tỉ Mỹ kim vào năm 2013. Một phần
nhỏ nhờ vào thặng dư về cán cân thương mại (trade balance) 3.3 tỉ Mỹ kim, nhưng
phần lớn hơn nhờ thặng dư về tài khoản chuyển nhượng vãng lai dòng (net current
transfer) 9.1 tỉ Mỹ kim trong đó có 11 tỉ kiều hối chuyển vào Việt Nam. [6]
Số
lượng ngoại tệ do kiều hối mang về rất cần thiết đối với Việt Nam để thanh toán
hàng hóa nhập khẩu và các dịch vụ thương mại. Ngoài ra nó còn giúp ổn
định tỷ giá (hối suất). Nếu ngoại tệ khan hiếm, đồng bạc Việt Nam sẽ mất
giá, tỷ giá của VNĐ đối với ngoại tệ sẽ lên cao và làm tăng lạm phát.
Mặc
dầu ngoại tệ có giá trị hơn đồng Việt Nam, nhưng không phải những người nhận
đều lãnh ngoại tệ. Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam cho biết, tỉ lệ kiều hối
chuyển sang VNĐ tại ngân hàng này lên đến 25% trong 2013, một phần vì tỷ giá
của VNĐ ổn định.
Lý
do giúp cho kiều hối gia tăng
Một
yếu tố giúp cho sự gia tăng kiều hối là số người Việt vẫn tiếp tục ra nước
ngoài qua chương trình đoàn tụ gia đình và qua chương trình xuất khẩu lao
động. Số công nhân Việt Nam làm việc ở nước ngoài từ khoảng 30,000 người
vào năm 2000 đã lên đến 500,000 người vào năm 2013. Kể từ năm 2015, công nhân
trong các nước thuộc Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of South
East Asian Nations – ASEAN) có thể tự do đi lại và làm việc ở trong vùng, do đó
sẽ làm số kiều hối tăng lên. [7]
Một
yếu tố quan trọng khác là sau nhiều năm đầu thử nghiệm Việt Nam đã rút tỉa ra
một chính sách cởi mở nhắm thu hút kiều hối bao gồm một số biện pháp cần thiết
như không hạn chế số lượng kiều hối, cho phép nhận và trả bằng ngoại tệ. Người
nhận không bị bắt buộc phải gửi vào chương mục tiết kiệm hay bán ngoại tệ cho
ngân hàng và không phải trả thuế thu nhập trên số kiều hối. Ngoài ra, sự chênh
lệch về lãi suất áp dụng đối với tiền Việt Nam và ngoại tệ ở Việt Nam cũng là
một yếu tố thu hút kiều hối.
Yếu
tố thứ ba là người Việt ở nước ngoài về thăm Việt Nam, mua nhà ở hay đầu tư
được dễ dàng hơn trước. Dịch vụ chuyển tiền phát triển rộng rãi ở trong nước
cũng như ở hải ngoại với nhiều công ty và chi nhánh chuyển tiền với sự cộng tác
của các ngân hàng, một phần nhờ chánh sách cho phép mọi thành phần kinh tế được
tham gia vào việc chuyển tiền. Thủ tục chuyển tiền khá giản di và nhanh
chóng. Thông thường chỉ trong vòng 24 giờ là người ở Việt Nam nhận được
tiền kể cả ở vùng quê. Chi phí chuyển tiền qua công ty thương mại và ngân hàng
tiếp tục giảm do cạnh tranh rất cao. Thí dụ lệ phí chuyển 100 Mỹ kim từ Hoa Kỳ
qua một công ty chuyển tiền ở vùng Virginia về Việt Nam là 2 Mỹ kim và từ 300
Mỹ kim lệ phí là 1.5 Mỹ kim cho mỗi 100 Mỹ kim.
Kiều
hối được sử dụng như thế nào?
Theo
cuộc nghiên cứu của Nguyễn Việt Cường và Daniel Mont xuất bản vào 2012 đã đề
cập đến ở trên, phần lớn kiều hối chuyển vào Việt Nam được dùng vào việc mua
bán nhà, đất, trả nợ và tiết kiệm. Một phần nhỏ được dùng để mua những sản phẩm
công nghiệp. Ngoài ra, cuộc nghiên cứu tìm thấy rằng kiều hối không được dùng
vào việc sản xuất cũng như tiêu thụ hàng ngày và ảnh hưởng đối với giảm nghèo
về mặt tiêu thụ rất giới hạn, ít nhất trong ngắn hạn.
Một
cuộc nghiên cứu khác của Vân Phượng Hoàng và Elisabetta Magnani thuộc
University of New South Wales xuất bản vào 2012 cũng có một kết luận tương tự
rằng số lượng kiều hối từ nước ngoài do Việt kiều gửi về không có ảnh hưởng đến
việc phát triển thương mại. Trái lại, những số tiền của công nhân sống ở Việt
Nam nhưng xa gia đình hay làm việc ở nước ngoài trong chương trình xuất khẩu
lao động gửi về quê quán đã giúp cho thân nhân xây dựng cơ sở làm ăn. [8]
Hình (CAMSA): Công
nhân bị bóc lột ở Jordan trở về Việt Nam.
Một
phúc trình của Ủy Ban Giám Sát Tài Chánh Quốc Gia dựa trên việc khảo sát 4,000
hộ nhận kiều hối vào năm 2011 cho thấy 52% lượng kiều hối được đầu tư vào bất
động sản. Tiếp theo là tiết kiệm và tiêu dùng. Theo thống kê của chi nhánh Ngân
Hàng Nhà Nước tại Sài Gòn, số lượng kiều hối đầu tư vào bất động sản đã giảm
xuống 23% vào năm 2012 và 21% trong 10 tháng của năm 2013. Ngược lại, tỉ
lệ kiều hối đầu tư vào lãnh vực kinh doanh gia tăng. [9]
Kết
luận
Kiều
hối là một nguồn ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả khi có cuộc khủng hoảng
kinh tế, so với những nguồn tài chánh khác như đầu tư ngoại quốc trực tiếp và
tiền viện trợ. Kiều hối chứng tỏ là một yếu tố quan trọng đối với nền
kinh tế Việt Nam. Nó giúp cân bằng cán cân vãng lai, tăng cường ngoại tệ dự
trữ, và giúp cải thiện đời sống của người nhận.
Việt
Nam cần phải tiếp tục duy trì chánh sách cởi mở về kiều hối. Cải thiện chính
sách xuất khẩu lao động là một ưu tiên để có sự cạnh tranh lành mạnh trong việc
tuyển dụng nhân công ra nước ngoài và giảm lệ phí tham gia chương trình xuất
khẩu lao động. Việt Nam cần tiếp tục gửi công nhân đi nhiều nước khác nhau,
thay vì một vài nước, để tránh những biến động địa phương bất ngờ.
Công
nhân làm việc ở nước ngoài cần phải được bảo vệ đầy đủ chống lại sự bóc lột của
giới chủ nhân. Nhiều trường hợp như vậy đã xẩy ra trong quá khứ trước sự
làm ngơ của các sứ quán Việt Nam hoặc tệ hơn với sự tiếp tay của các viên chức
này như trong trường hợp 1,600 công nhân Việt Nam ở Malaysia và gần 200 công
nhân Việt ở Jordan vào 2008. Gần đây hơn vào đầu năm 2013 tại Nga, 15 nữ
công nhân Việt Nam bị lường gạt và bán vào ổ mãi dâm với sự tiếp tay của một
công ty xuất khẩu lao động ở Việt Nam và nhân viên của Tòa Đại Sứ của Việt Nam
tại thủ đô Moskova.[10]
Vậy nhà nước có trách nhiệm phải kiểm tra những công ty xuất khẩu lao động và
phải có biện pháp trừng phạt nặng nề những kẻ chủ mưu ám hại ngay cả người đồng
hương thân cô thế cô ở xứ người.
Việc
sử dụng kiều hối ở Việt Nam chưa được thỏa đáng. Việt Nam cần phải hoạch định
một chính sách để khuyền khích việc sử dụng kiều hối vào những dự án đầu tư sản
xuất ngắn hạn và dài hạn và vào công việc kinh doanh thay vì vào thị trường địa
ốc và tiêu thụ.
Tiềm
năng đầu tư của người Việt ở nước ngoài rất đáng kể. Để khai thác được
tiềm năng này, nhà nước Việt Nam không những phải cải tổ môi trường kinh doanh
ở trong nước để có sự bình đẳng, minh bạch, và tự do thông tin đa chiều mà còn
phải loại bỏ tệ nạn tham nhũng. Cải tổ chính trị cần phải thực hiện song song
với cải tổ kinh tế. Có tự do dân chủ mới có thể tận diệt được tham nhũng và
giảm thiểu những lãng phí tài nguyên quốc gia như hiện nay. Trong chính trị
cũng cần có cạnh tranh như trong thị trường kiều hối và trong kinh tế nói chung
mới có sự trong sạch và tiến bộ.
[1] Thùy Vinh, “Kiều
Hối Năm 2014 Dự Báo Tăng 20%.” Báo Đầu Tư, 27-1-2014.
[2] Nguyen Viet Cuong,
Daniel Mont, “Economic Impacts of International Migration and Remittances on
Vietnam’s Development,” Emerald Group Publishing, United Kingdom, 2012.
[4] Pfau Wade Donald
& Giang Long Thanh, “The Growing Role of International Remittances in the
Vietnamese Economy: Evidence from the Vietnam (Household) Living Standard
Surveys,” 2010.
[7] Hà Thu & Anh
Quân, “Việt Nam thuộc top nhận kiều hối nhiều nhất thế giới,” VNExpress,
15-4-2014.
[8] Van Phuong Hoang,
Elisabetta Magnani, “Remittances and Household Business Start-Ups in Vietnam:
Evidence from Vietnam Household Living Standard Surveys,” Uiversity of New
South Wales, Sydney, 2012.
No comments:
Post a Comment