6/2014
Hồ
Chí Minh: con khủng long ba đầu, chin đuôi
Đã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí
Minh (HCM) riêng cuốn Trần Đức Thảo Những Lời Trăng Trối là cuốn rất đặc
biệt vì sách đã “phân tích sư thật về những hành động khủng khiếp” của họ Hồ bởi
một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới”. Năm 1951 ông bỏ Paris về nước
sống; đã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40
năm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất đã khẳng định, Marx đã gây ra mọi sai
lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” đã khiến “ông cụ” là một
con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của đạo lý”.
Theo ông, đây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời” và “là một con khủng
long ba đầu, chin đuôi”.
Lời trối trăng của nhà triết học Trần Đức Thảo cho
biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ” , không dám
đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế
tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của
Viêt Nam đã tích tụ quá nặng đầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427
trang là những lời tâm sự sống động của một nhà tư tưởng giúp độc gỉa hiểu
rõ nguồn gốc của thảm kịch đang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên đất nước ta.
Ông cảnh báo xã hội Việt Nam “đang bị ung thối bởi căn bệnh xảo trá, căn bệnh
thủ đoạn của đảng”. Ông bị tống đi ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé đi một
lượt, bị đuổi khỏi Saigon, buộc phải đi Pháp, không được trở về Hà nôi.
Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Đức Thảo
(1917-1993) đã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ”
mang tính sinh tử với đất nước và dân tộc, đã để lại di sản vô cùng trầm trọng:
“chọn chủ nghĩa xã hội của Marx để xây dưng chế độ, chọn chiến tranh xoá hiệp
định hòa bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao
và đảng Cộng sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí”. Sách có 16 chương, một
chương chỉ để giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng được đề cập tới. Ông
xác nhận, hễ nói tới thảm kich VN thì “không thể không nhắc tới ông cụ”. Cố
giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao đã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và
“Trung Quốc muốn nhuộm đỏ Viet Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc”.
Đãi
ngộ hay bạc đãi
Triết gia Trần Đức Thảo (TĐT), nổi tiếng về hiện tượng
luận, từng tranh cải với Jean-Paul Sartre được đảng Cọng Sản Pháp vận động để
được cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu rộng cuộc
cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của Karl Marx”.
Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu gián điệp trí
thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Năm 1991 ông “bị đẩy
trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua đời ngày 24/4/1993, nhà cầm quyền Hà nội
lại truy tặng ông huy chưong Độc Lập; ca tụng ông là nhà triết học lớn của thế
kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tuởng HCM” đã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt
Nam và lúc sinh thời đảng, nhả nước rất mực trọng đãi ông.
Có thật thế không? Trong chương Đãi ngộ hay bạc đãi,
ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một đối xử nghiệt ngã và tồi
tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn đứng
giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ để cho sống; cho tôi khỏi chết đói; chỉ
toàn là bạc đãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập
nhân dân nghĩa là phải cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời đảng”. Ông tiết lộ, tuy
có chức phó giám đốc trường Đại Học Văn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề được tham dự
bàn bạc gì vào việc tổ chức, điều khiển, ngay cả ý kiến giảng day cũng không hề
có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay đi theo các phái đoàn thanh tra
là chỉ để “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.
Những điều nói đó phù hợp với bài báo của nhà thơ
Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Đức Thảo đăng trên báo Tiền
phong ngày 11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất
nhiều người trong nước được biết rằng đất nước chúng ta đã từng sinh ra một triết
gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì
lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ,
mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt
quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà đồng nát
cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng
lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.
Mưu
thần chước quỷ
Nhiều người tự hỏi bị đối xử cay đắng như vậy sao
“bác Thảo lại hay có lúc bật cười như điên”; và bị chung quanh chê bai, chế giễu
“bác là người khùng”? TĐT cho hay, ông bắt đầu “hết cười rồi lại khóc”
sau khi tham gia đợt thì iành cải cách ruộng đất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên
Quang năm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh đạo “chọn con đường hành
động nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm
thằng đểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TĐT đi chăn bò, theo
ông, đó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của
một chính quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng
câu “trí thức không bằng cục phân” của Mao .
Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất
sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con đẻ của đảng Cộng sản Trung Quốc”. Là một
nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, đánh gía lại, ông thấy “nước ta trồng cây
tư tưởng của Marx, cho tới nay cây đó chỉ cho toàn quả đắng”. Chính “cái
thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự đau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức
hệ” khiến ông muốn “đặt lại vấn đề từ học thuyết”. Triết gia TĐT nói, nhiều
lãnh tụ “từ lầu đài tư tưởng Marx bước ra đã trở thành những ác quỉ”. Theo ông,
“quỉ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rút” tư tưởng độc hại vô
cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc đẩy con người đam mê tìm thắng lợi, bằng đủ
thứ quỉ kế, để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng.
Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là
một nhà ảo thuật chính trị đại tài : lúc thi biến có thành không, lúc thì biến
không thành có”. Đúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành động muôn hướng, muôn
mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”. Bác Hồ
đánh lừa dư luận Âu My, khi chép lời nói đầu bản tuyên bố độc lập của Mỹ; đánh
lừa các đảng trong nước khi thành lập chính phủ đại đoàn kết và mời cựu hoàng Bảo
Đại làm cố vấn. Vài tháng sau. Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản động; đẩy
Bảo Đại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn được triết gia TĐT gọi là một nhà chính trị
“thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao để được
đưa về xứ làm lãnh đạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.
Giáo sư TĐT kể lại rằng, biết mình bị Đệ Tam
Quốc Tế tức Liên sô loại đuổi khéo về Viễn Đông và biết Mao là thủ lãnh các
phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ
gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc; được Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng
bước loại bỏ tất cả đối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ…
để rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước năm 1945. Dù sự tấn
phong “ông cụ” ở các đại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các
khu uỷ, xử uỷ và của “Đê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên đã qua mặt những
sự phản đối này vì họ là những kẻ đã từng nhận được sự nâng đỡ của cộng sản
Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt
cơ hội”.
Huyền
thoại “bác Hồ”
Vẫn theo nhà tư tưởng TĐT, các nhà nghiên cưú nước
ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ
máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của đảng thì làm sao họ
hiểu hết được mặt thật của họ Hồ. Ông noí, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc
lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Đó là những tên
giả chính “cụ Hồ” đã tự đặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân tách những
chuyện biến tư tưởng qua từng giai đoạn đổi tên, đổi họ; từ những cái tên “Tất
Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Đấy là những biểu
hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ
cách mạng sau khi không được cho vào học Trường Thuộc Địa để ra là quan.
Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách
đề cao mình, như “những mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch”
và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân được.
“Ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị điên đảo. Ngoài ra, đám quần thần chung
quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “người”. Họ tôn
vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói
“ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TĐT cho biết, năm 1946 gặp “ông cụ” trong
một buổi chiêu đãi ở Paris, ông đã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa
cần tới chú đâu” của HCM; khi ông tư ý nắm tay “ông cụ” ngõ lời: “Tôi muốn về
nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp tại quê hương”
Dù thê, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông
được vể nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội
và Saigon đang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp
thống trị mới đang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TĐT càng thấy huyền
thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hoá trang
cao độ”. Cái gì có giá trị là của bác, của đảng. Họ công kênh “ông cụ” là bậc
thần. Theo TĐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có
thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng HCM. Ông nhấn mạnh,
“bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành đạt về chính trị; “không thể nào là mẫu
mực về mặt đạo đức”; vì cách sống muôn mặt của bác đâu phải là gương sáng.
Nhà triết học bị kết tội “cầm đầu âm mưu chống đảng”
vì hai bài gửi cho Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em văn nghệ trẻ chủ
xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp đứng đầu là Sartre “tận
tình quan tâm, chăm sóc” đến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác năm 1946 đòi
cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn đấu lý
với cố vấn Trung Quốc lúc làm đội viên cải cách ruộng đất và vụ Nhân Văn Giai
Phẩm (NVGP), ông có thể “dễ chết`như chơi”. Năm 1952 triết gia được phép dẫn đi
chào “Bác”. Ban lễ tân dặn ông bốn điều cần nhớ: phải đứng xa “Người” ba mét,
chỉ lại gần khi “Người” ra lệnh; không được nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không
được chào trước; không được nói tôi, mà phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng
“bác”.
Chư
hầu ngoan ngoãn
Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TĐT thì HCM chưa
đọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa được”; nhưng
lại “đọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machievel”, cuốn chỉ bày tận dụng
mọi thứ để người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý
trí đến vô cảm; không thiết tha với gia đình; không có bạn hữu thân tình.
“Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học
được ”ông cụ” đào tạo để phục tùng; rồi sau đề bạt lên làm lớn. “Ông cụ”
làm thơ là “do cuồng vọng chính trị”, là để “ca ngợi mình và “hô hào quyết chiến”.
Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó đè.
Đó là “ bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán lấn át của Mao.”
Vẫn theo TĐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một
phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên đẹp “khối các nước xã hội
chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một đế quốc đỏ; nó kềm kẹp các dân tộc
nhược tiểu quanh nó. Đó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”; muốn
biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền lực từ
ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được nên đã lấy học thuyết “giai cấp đấu
tranh” làm kim chỉ nam để tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà triết
học nói, để nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông thần”, từ bỏ
cả vợ con, mất đi tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài. Lại thêm,
Mao đã cài chung quanh “ông cụ” một đám cực kỳ cuồng tín.
Trong chương “Hai chuyến di chuyển đổi đời” của
cuốn sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông được rời cảnh “sống như bị giam
lỏng ở Hà nội” để vào Saigon ở là nhờ sự vận động của một số đồng chí trí thức
Nam Bộ. Saigon đã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện đại; đâu
có đói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt. Miền
bắc bị tư tưởng Mác-Lenine làm nẩy sinh những chính sách đầy sai lầm. Sĩ quan của”bộ
đội cụ Hồ” đã có “thái độ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi Dương văn
Minh là mày, và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu. Đấy là những lời thố lộ của TDT
mà nhà văn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê đã viết lại qua các cuốn băng thu những điều
ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối đời ông ở Paris.
Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công
Sơn là hai người đã thúc đẩy ông phải thoát khỏi thái độ hèn nhát đã ngự trị trong
đầu óc trí thức và văn nghệ sĩ Hà nội; họ đã ứng xử đồng lõa với tội ác của
cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP. Người thứ
hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở Saigon sau
1975, nếu đọc chương “Vẫn chưa được giải phóng” đều nhận thấy những mô tả của
triết gia về Hà nôi năm 1954 rất giống Saigon sau 30/4/75: “cả con người và xã
hội ở đây đã không hề được giải phóng” và thật là “vô lý và nhục nhã” khi so
sánh với chế độ cũ. Ông nhận xét: tư hưũ kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có
được; tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký và quyền lực.
Cao
vọng hơn “bác Hồ”
Được gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10
ngày TĐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có
con người”. Đây là văn bản phản bác gíáo điều, được đón nhận như một bông hoa lạ.
Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức khác
còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học để nghe những “lời
tiên tri” là “cách mạng đã biến chất để tư bản man rợ tràn ngập”. Trung
Ương thấy số người “phức tạp” đến gặp “bác Thảo” càng ngày càng đông, nên Đảng
đã quyết định “anh phải ra đi”. Nhà triết học than“ thôi thì đành mang thân xác
ra xứ người”. Qua Pháp, tuy đã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh sống
nay lo mai”, và còn bị Toà đại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.
Trong cái xui có cái may. Nhà văn Tri Vũ-Phan Ngọc
Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ để kiếm sống qua các buổi thuyết trình
ở kinh đô ánh sáng mà đã làm quen thân với ông, được nghe ông tâm sự. Quyển
sách ghi lại nỗi hối hận đã thiêu đốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Nhà
văn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn băng cho những ai muốn nghiên cứu về
TĐT”. Trong sách nhà triết học có lần đã khẳng định: “tôi có tham vọng
cao hơn của “bác Hồ” nhiều lắm”. Đấy là xây dưng “một lâu đài tư tưởng trong đó
toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá
phiếu của mình”. Nhưng mộng đó không thành, triết gia lừng danh một thời trời
Âu bị đột tử. Chúng ta mất đi “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách
mạng”.
Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ,
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, cho biết việc tái bản cuốn sách là để phục hồi danh dự
một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc đời TĐT xem
như cuộc đời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào năm 1951 nên
mọi sự trở nên vở lỡ. Cuộc đời đó có thể xem như một bài học
– “an object lesson” – với những ai để cho tình cảm, lý tưởng che mờ đi
lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có đời sống gia đình, không
có tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm cho quê hương đất nước của
ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự nghiệp dang dở.“. Sách được xuất bản
lần đầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ để
thăm dò ý kiến thân hữu.
Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên tội đồ
hay các nhà khoa bảng, các học gỉa, các ông bà phản chiến và những ai còn
nghĩ đến nước Việt nên đọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác gỉa nào trên thế
giới - ngoại trừ triết gia TĐT- nêu ra được, thật sáng tỏ, những điều vô cùng
bi thảm trong thời cách mạng; vì ông đã trải nghiệm 40 năm trong cuộc. Ngoài
ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm
về HCM, kẻ đã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam
TĐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự đại nhưng
“không gian trá đến mức tinh quái” để có những “hành động muôn hướng, muôn mặt,
trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.
Phan
Thanh Tâm
Saint Paul, 6/2014
Về chữ “trăng trối” thay vì “trăn trối” trên tựa
sách, tôi nhận được lá thư này của tác giả chuyển qua tác giả Phan Thanh Tâm.
Vì chữ “trăn trối” phổ biến hơn là “trăng trối”, nên tôi đưa thư của tác giả
lên đây để độc giả có thể tham khảo (lth, chủ biên gio-o.com)
On Tuesday, June 17, 2014 8:04 AM, long
<….nguyen@aol.com> wrote:
Thân gởi Anh Phan Thanh Tâm
(và xin nhờ Anh chuyển đến cho những ai thắc mắc),
Về vấn-đề chữ "trăng trối" trên bìa sách
TRẦN ĐỨC THẢO thì tôi xin thưa như sau:
Có một ngộ-nhận khá phổ-biến là chữ "trăng trối"
phải viết là "trăn trối," nghĩa là chữ "trăng" không có
"g." Có lẽ ngộ-nhận này xuất phát từ sự gần như đồng-hóa
"trăng trối" với "trăn trở," một chuyện khác hoàn-toàn.
Nếu chúng ta giở từ-điển ra xem, chúng ta sẽ thấy hầu
hết các từ-điển đều ghi là "trăng trối," thí dụ:
Việt-nam Tự-điển của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, trang
1656.
Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, ấn-bản
1992, trang 1008.
Tự Điển Việt-Anh của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, trang
754.
Từ Điển Tiếng Việt của Văn Tân không có "trăng
trối" nhưng có "trối trăng," trang 1259.
Vietnamese-English Student Dictionary của Nguyễn
Đình Hòa cũng không có "trăng trối" nhưng ở trang 613 có "trối
trăng" và nói "xem giối giăng."
Và hầu hết các từ-điển chính-tả Việt-ngữ cũng đều viết
"trăng trối."
Không hiểu sao ngộ-nhận "trăng trối" phải
viết không "g" có thể phổ-biến đến như thế!
Có hai cách để ta xác-định "trăng trối" bắt
buộc phải có "g." Đó là:
Thứ nhất, có lẽ ai cũng dễ dàng đồng-ý "trăng
trối" là đảo ngược của "trối trăng,"
mà "trối trăng" thì không ai viết thành
"trối trăn" cả.
Thứ hai, trong tiếng Việt lịch-sử có một sự tương-đồng
giữa "tr" và "gi":
trời - giời
trăng - giăng
trả - giả
trao - giao v.v.
Và như vậy thì:
trăng trối tương-đồng với
giăng giối
cũng như
trối trăng tương-đồng với
giối giăng (không ai nói hay viết "giối giăn" cả)
Mong là các bạn nào thắc mắc đồng-ý với sự phân-tích
nói trên.
Và cũng xin Anh Phan Thanh Tâm chuyển giùm giải
thích của tôi đến các anh chị em ở Gió O, nhất là nếu Gió O còn muốn giữ sự
trong sáng của tiếng Việt! Và có lẽ cũng nên xin Gió O tôn trọng cách viết của
tác giả và nhà xuất bản!
Cười nhất là nhiều độc-giả đến Little Saigon Radio (ở
Quận Cam) mua cuốn sách xong gọi vào phản-đối chữ "trăng" có
"g" trong "trăng trối." Có người còn đi xa đến chỗ
đòi trả lại sách và đòi tiền lại! Tôi nói đùa: "Nếu họ đòi thì cứ
hoàn trả tiền họ, và để cho họ giữ cái dốt, cái sai của họ."
Thân,
BÍCH
6/17/2014
© gio-o.com 2014
No comments:
Post a Comment