Vũ
Thư Hiên
26/06/2014
Gửi các bạn một truyện ngắn mà tôi nghĩ nó đã thất lạc, mà bạn Dung Dang
đã tình cờ gặp và gửi lại cho tôi. Một câu chuyện buồn, như mọi chuyện buồn
trong cuộc sống ở một đất nước buồn.
Vũ
Thư Hiên
1.
Nghe tôi nói đến "Hiếu Nhà Băng", ông Thạc
lộ vẻ ngạc nhiên:
- "Hiếu nhà băng" ở Zurich? Ông cũng quen
hắn à?
- Quen. Nhưng chưa lâu lắm. Ông biết ông ấy?
- Biết chứ. Từ hồi kháng chiến chống Pháp kìa. Lúc ấy
hắn có cái biệt danh khác - "Hiếu tồ".
- Trái đất tròn thật. Tôi gặp ông Hiếu trong chuyến
du lịch trên sông Nil, lâu rồi, dễ cũng đến ba hoặc bốn năm. Quen nhau kiểu ấy
thì chỉ loáng thoáng thế thôi, mãi đến năm ngoái gặp lại nhau ở Genève hai đứa
mới có dịp tâm sự. Ông này tính tình cởi mở, dễ chịu lắm, tuy có hơi tồ tồ một
chút thật, ông gọi là Hiếu tồ cũng không ngoa. Nghe ông nói mới biết, chứ tôi cứ
tưởng ông ta là dân Bắc kỳ di cư rồi vọt qua đây sau tháng tư 75. Cái vụ thuyền
nhân bi thảm là thế, thế giới chửi cho mất mả, vậy mà cũng có cái mặt hay của
nó - người mình giờ ở đâu cũng có, dễ chỉ thua dân Trung Quốc. Người ta bảo ở
đâu có gián ở đấy có người Trung Quốc.
- "Hiếu tồ" đi sang bên này khoảng 78 hay
79 chi đó.
- Thuyền nhân?
Ông gật đầu.
- Tức là có đi kháng chiến một đoạn, rồi dinh tê?
- Đại khái thế. Nghe nói bây giờ hắn giàu. Không phải
giàu thường thường, mà giàu lắm.
Ông Thạc liếm đôi môi khô. Trong giọng nói của ông
có một chút khó chịu, hoặc một chút ghen tị, hoặc cả hai.
- Trông ông ấy bề ngoài thì cũng bình bình, vầy vậy,
không có dáng giàu có - tôi thấy cần nói nhận xét của mình, tôi không thích cái
sự khó chịu vì người khác giàu ở ông Thạc - Ăn vận xuyền xoàng, xe không sang -
một cái BMW không còn mới. Đại khái thì cũng như mọi người khác, người bình thường,
không vênh, cũng không hãnh. Nghe ông ấy kể thì đúng là trước khi về hưu ông ấy
có làm việc ở một ngân hàng lớn. Phó giám đốc hay là chuyên viên gì đấy.
- Giám đốc đấy, ông ạ. Làm đến chức ấy thằng chó nào
mà không giàu cơ chứ?
Ông Thạc đổi giọng ngậm ngùi:
- Ngẫm ra cái số con người ta thật lạ, lên voi xuống
chó khôn lường, có giời biết trước. Tôi biết Hiếu lắm. Trước đây, hắn công tác
cùng chỗ với tôi.
Đến lượt tôi ngạc nhiên:
- Tức là ông Hiếu còn ở bộ đội nữa?
- Chứ sao. Cấp dưới của tôi. Nhưng hồi ông đến công
tác ở chỗ tôi thì hắn không còn đấy nữa. Đào ngũ rồi.
- Năm nào?
- Đầu năm 54.
- Chiến thắng đến nơi mà còn chuồn, rõ hoài, có phải
không ông? Ông Hiếu có không muốn nhắc đến giai đoạn ấy cũng là phải thôi, chẳng
vinh quang gì.
Tôi với ông Thạc quen nhau hồi ông còn làm trưởng
phòng chính trị quân khu 3, tôi từ Việt Bắc về làm công tác tổng kết quân sự. Rồi
tiếp quản thủ đô, mấy đợt rèn cán chỉnh quân, chúng tôi gặp nhau luôn. Ông về
hưu với quân hàm đại tá. Người khác ở tuổi ông, có thâm niên quân đội như ông,
thì đã lên tướng từ lâu.
Chuyện dân "tạch tạch xè", đi kháng chiến
bị phân biệt đối xử là chuyện thường tình, chẳng làm ai ngạc nhiên. Quen nhau
lâu thế nhưng tình bạn giữa chúng tôi không thể gọi là thân thiết, có lẽ tại
tính tình không hợp, hoặc tại cái gì đó không giải thích được, nhưng biết nhau
hơn nửa thế kỷ mà vẫn giữ được quan hệ quen biết nhau thì cũng coi như có sự gần
gụi.
Ông sang Đức ở với con gái, không hiểu nhờ ai mà biết
địa chỉ của tôi, ông có biên thư hỏi thăm, thành thử có việc qua vùng ông ở,
tôi rẽ vào thăm. Ông mừng lắm, ôm chặt, vỗ lưng tôi đồm độp, mắt nhòa đi. Ông
đang trong cơn cô đơn, tôi đoán. Tâm trạng này,với từng cơn ác tính, có ở bất cứ
người lớn tuổi nào trong cuộc sống xa quê. Hỏi thì ông bảo cuộc sống của ông tạm
ổn, không có gì đáng phàn nàn.
Anh con rể người Đức là chuyên viên của hãng Siemens
nổi tiếng, lương cao; cô vợ trông nom một cửa hàng hoa tươi, nhiều khách quen,
có bề phát đạt. Ngoài ngôi nhà ở khang trang ở trung tâm Stuttgart, hai vợ chồng
còn tậu được một nhà vườn. Ở nước Đức như thế là thuộc loại trung bình khá.
Khi mới sang, ông bố vợ ở chung với các con, ít lâu
sau ông dọn ra ở nhà vườn. Ông bảo ở đây cũng đủ mọi tiện nghi, lại được ở một
mình, dễ chịu hơn, chưa kể sáng sáng còn có việc làm - với cái cuốc, cái kéo tỉa
cây, bình tưới, ông chăm sóc mấy giàn hoa leo, mấy luống rau thơm, ăn không ngồi
rồi buồn chết đươc. Thỉnh thoảng, cuối tuần, hai vợ chồng dẫn mấy đứa cháu ngoại
ra thăm ông.
Ông không biết một tiếng Đức nào, với ai ông cũng chỉ
gật đầu mỉm cười thay lời chào. Anh con rể gật đầu chào lại, nhưng không cười.
Hai đứa cháu trai nghịch như quỷ sứ, vừa ra đến nhà vườn là chúi ngay vào các
trò chơi của chúng, la hét om sòm.
- Cái giống Đức tính lạnh, ông ạ, không như người
mình - ông nhận xét. Giao thiệp với dân Đức không dễ, chẳng biết trong bụng
chúng nó nghĩ gì. Thằng rể tôi đươc cái lễ độ, biết kính trọng bố vợ.
Ông tiếp tôi ở nhà vườn, xăng xái đi nấu cơm thết bạn.
Tôi thấy ông đi đứng còn nhanh nhẹn, lưng không gù, giọng sang sảng, duy có nước
da mai mái, dấu ấn của bệnh sốt rét kinh niên, làm ông hơi xấu mã. Hàm dưới đưa
ra, má hóp lại. Ở tuổi bảy mươi sáu mà được như thế là tốt rồi. Trong phong
thái, ông vẫn còn giữ được chút gì đó của một thời chinh chiến, khi ông còn là
một cán bộ quân sự quen ra lệnh. Bây giờ không ra lệnh được cho ai thì ông ra lệnh
con béc-giê giống Đức lúc nào cũng quanh quẩn bên chủ. Nó to như con bê, mà hiền
khô. Dưới sự chỉ huy của ông nó biết ăn cơm nguội rưới tí nước thịt, y như một
con vàng hoặc con vện Việt Nam.
Tôi muốn hỏi ông sang Đức sống lẻ loi thế này làm gì
cho khổ, trong khi ở Việt Nam ông có bạn bè, có họ hàng. Tuổi già sống cô độc ở
xứ người có vui gì. Lương hưu cấp tá giờ rất khá, hơn trước nhiều lắm, thừa đủ
cho một cuộc sống không còn nhiều đòi hỏi. Ông cũng cho biết nhà nước bây giờ
chiều cán bộ hưu lắm, nhất là đám có thâm niên cách mạng cao, không muốn họ gây
chuyện nay kiến nghị mai phản đối, hoặc a dua với bọn hới mưng đòi dân chủ.
- Sang đây ông có gặp lại ông Hiếu không?
- Có. Mà không.
- Là thế nào?
- Tôi có trông thấy hắn ta, nhưng không gọi.
- Sao vậy? - tôi trợn mắt - Ông giận ông ấy? Giận
cái chuyện đào ngũ ấy à? Vớ vẩn. Chuyện từ đời tám hoánh mà đến giờ còn để bụng
thì ông quẫn rồi đấy. Bọn mình, thằng chó nào cũng vậy, gần đất xa trời cả rồi,
mọi chuyện xửa xưa ông nghe tôi, cứ quăng tuốt đi, cho nó nhẹ. Ông âm lịch quá.
Ông Thạc nhún vai, môi dưới trề ra. Im lặng một lúc,
ông thủng thẳng:
- Không phải tôi giận hắn cái chuyện ấy đâu, chuyện ấy
tôi không tính, bộ đội hồi ấy đào ngũ nhiều, chẳng phải mình hắn... Hồi Cải
cách ruộng đất bọn con cái địa chủ, phú nông, không trước thì sau, theo nhau
chuồn bằng sạch. Không như chúng ta, đã đi với cách mạng là ta đi đến cùng.
Chúng nó không thể kiên trì lập trường cách mạng là do bản chất giai cấp của
chúng nó khác ta...
Tôi che miệng ngáp. Giời ạ, lại cái bài ca lập trường
giai cấp cũ rích tưởng chừng không còn có thể nghe thấy ở bất cứ đâu, đùng một
cái lại gặp nó giữa lòng nước Đức. Chán ơi là chán. Thậm chí tôi còn không còn
thấy ngạc nhiên nữa.
Từ lâu rồi, chính cái ông bạn tôi này từng than thở
với tôi rằng chúng tôi, có nghĩa là ông, và cả thế hệ ông nữa, bây giờ là cái vỏ
chanh vắt kiệt bị quẳng vào thùng rác lịch sử, rằng cuộc cách mạng đầy lãng mạn
là lẽ sống một thời trai trẻ của lớp người như ông đã biến mất, thay vào đó là
một xã hội của những kẻ đi sau về trước, trong cái xã hội đó những người như
ông chẳng là cái gì hết. Biết thì ông biết đấy, không phải ông ngu, ông không
biết, nhưng trong tâm tư ông, trong cái vô thức vô duyên của ông, lại có cái gì
đó chống lại cái biết của ông, khốn nạn vậy.
Những người như ông không ít. Trong họ cái quá khứ
hào hùng nặng như cối đá, bất chấp sự biết ấy, sự ngộ nhận ấy, vẫn cứ tiếp tục
tồn tại, nó sống không cần anh có biết đến nó hay không, nó hiện hữu thường trực
như một bản năng được cấy ghép, âm thầm hiện hữu, thậm chí ta không nhận thấy
nó, nhưng thỉnh thoảng nó lại trỗi dậy, thỉnh thoảng lại hung hăng lên tiếng.
Trong cái xã hội do chính họ tạo ra, nhưng lại hình thành ngoài ý muốn của họ,
theo một cách khác hẳn, họ chẳng còn gì để tự hào, họ thấy mình là đồ bỏ trong
lòng xã hội ấy, thế là họ đành nhẫn nhục sống với những kỷ niệm, với những giáo
điều đã chết và những hào quang không còn lấp lánh.
- Vậy thì vì cớ gì ông giận?
- Hắn là thằng vô ơn, ông ạ - ông thở dài. Tôi giận
là giận cái sự vô ơn ấy. Hắn chịu ơn tôi, nhưng khi gặp tôi, hắn lờ. Tôi chỉ cần
được nhìn thấy hắn mừng rỡ khi gặp lại tôi thôi, thế là đủ, thế là được, khốn nạn,
nào tôi có mong gì hơn, nhưng không, khi gặp tôi, hắn lờ tịt.
2.
Ông Hiếu cười buồn khi nghe tôi kể chuyện tôi gặp
ông Thạc.
- Tôi nhớ ông ấy chứ, quên sao được. Trí nhớ tôi
không đến nỗi tồi. Tôi có nhìn thấy ông ấy thật. Và tôi đã không gọi, đúng thế.
Chuyện ông ấy kể cho ông nghe không sai, ông ấy không bịa, đúng là ông ấy có
làm ơn cho tôi thật. Nhưng là một thứ ơn mà người mang ơn không muốn nhớ đến
...
Chúng tôi ở trong một biệt thự nhỏ và xinh xắn bên bờ
hồ Bodensee, còn có tên là hồ Konstanz, chung biên giới với ba nước Đức, Áo, Thụy
Sĩ. Hồ này rộng mênh mông, nó đứng thứ hai tính về diện tích các hồ thuộc vùng
núi Alpes. Giá đất ở những nơi có địa thế đẹp ở ven hồ Konstanz đắt khủng khiếp,
có thể so với giá đất ở Hà Nội. Ở những địa điểm có thể xây khách sạn, nhà nghỉ
phải có nhiều tiền lắm lắm mới xây được một biệt thự riêng.
Tôi hiểu như thế nên rất ngạc nhiên thấy bên trong
ngôi biệt thự chắc chắn là đắt tiền của ông Hiếu chẳng có gì sang trọng. Giữa
phòng khách chình ình một cái chõng tre y như trong một quán nước ở đồng bằng
sông Hồng; trên đó lỏng chỏng một cái ấm giỏ và mấy cái bát sành. Ghế ngồi là
những thân gỗ mộc xù xì, nhưng có đệm dành cho khách không quen ngồi ghế gỗ.
Tôi đã gặp cách bài trí theo lối cổ ở nhiều nhà người Việt ly hương, với những
hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, những sập gụ, tủ chè, tràng kỷ, cái nào
cái nấy thuần bằng gỗ quý đặt trong nước làm ... Cũng là nỗi nhớ quê hương,
nhưng khác với nỗi nhớ của ông Hiếu, nó là nỗi nhớ trưởng giả hoặc mang hơi trưởng
giả.
- Tại sao?
Ông Hiếu bắt đầu câu chuyện gợi trí tò mò của tôi
vào một đêm khuya, cả hai đều khó ngủ. Chúng tôi ngồi bên nhau, an nhàn tựa
lưng trên ghế dài đặt sát mép nước hồ. Ban đêm mặt hồ phẳng lặng như một tấm
gương vô cùng lớn màu đen, với những đốm lửa nhấp nháy ở chân trời, rất xa, nơi
có quần thể đông đúc khách sạn và nhà hàng.
- Ông Thạc chưa kể cho ông nghe?
- Chưa. Ông kể đi.
Ông Hiếu im lặng một lúc lâu. Hình như ông do dự,
ông không muốn kể, có thể là ông không muốn gợi lại một quá khứ muốn quên. Ông
chỉ kể khi tôi phải thúc giục vài lần nữa. Sau đây là câu chuyện tôi được nghe
trong đêm ấy.
"Ông Thạc lúc bấy giờ đã là bí thư chi bộ, tôi
là quần chúng. Chúng tôi đều là học sinh xuất thân, lý lịch của chúng tôi đơn
giản, chúng tôi vào bộ đội như là lẽ đương nhiên - thanh niên thời chiến thì phải
cầm súng bảo vệ Tổ quốc.
Tôi với ông Thạc vừa là bạn, vừa có quan hệ cấp trên
cấp dưới. Cái sự tôi ở trong diện cảm tình đảng, đang thời kỳ thẩm tra lý lịch
để kết nạp cũng là do ông Thạc quan tâm nâng đỡ. Chứ tôi, nói thật với ông, chẳng
thuộc diện được đảng chú ý, tôi thì cũng chẳng mặn mà gì cái sự vào đảng.
- Vào thời ấy mà không biết quý cái sự vào đảng thì,
nói thế nào cho đúng nhỉ, - tôi nói - hoặc ông rất cấp tiến, hoặc ông hâm.
- Tôi không cấp tiến, cũng chẳng hâm - tôi lười, ông
ạ - ông Hiếu cười khe khẽ. Người ta phấn đấu để được vào đảng, để được đề bạt,
để được oai với người khác, tôi thì không. Còn chiến tranh thì mình làm lính, hết
chiến tranh thì thôi, chẳng lẽ ở bộ đội cho đến hết đời à? Trong đảng họ nghĩ
gì về tôi, tôi không biết. Mà họ nghĩ gì mới được chứ? Họ coi tôi bình thường,
như mọi người lính không có gì đặc biệt. Tôi ở đơn vị chiến đấu suốt từ những
ngày đầu kháng chiến cho tới khi quân khu lấy về làm ở phòng chính trị, dưới
quyền ông Thạc. Tôi không thích làm lính ống quyển , nhưng quân lệnh như sơn, cứ
là phải chấp hành.
- Ông có phạm kỷ luật gì trong thời gian ấy không?
- Không.
- Ông Thạc nói ông mang ơn ông ấy là ơn thế nào? -
tôi rụt rè hỏi.
Ông Hiếu im lặng.
- Tôi đoán ... ông phạm kỷ luật gì đó và ông ấy đã gỡ
tội cho ông?
- Cái ơn còn lớn hơn. Tôi sẽ kể ông nghe.
Ông không kể ngay. Ông nhìn ra hồ. Khi có gió, mặt
nước cũng lăn tăn một chút làm xao động những đốm lửa xa.
Tôi im lặng chờ. Cuối cùng rồi ông Hiếu cũng bắt đầu
câu chuyện gợi trí tò mò của tôi:
3.
"Một hôm, ông Thạc gọi tôi ra chỗ vắng. Ông thì
thào:
- Lâu nay cậu có tin tức gia đình không?
- Không. Cũng đến cả năm rồi không thấy thư từ gì hết.
Chắc cũng chẳng có chuyện gì đâu, vùng tôi ít bị máy bay bắn phá - tôi nói. Ông
cụ tớ cũng bận. Làm chủ tịch xã, lại còn kiêm nhiều việc trên huyện nữa. Tớ
tính sau đợt chỉnh quân tới sẽ xin đi phép về thăm các cụ.
Ông Thạc có vẻ lúng túng. Có vẻ ông ấy phải chọn lời:
- Tớ nói chuyện này, nhưng cậu phải tuyệt đối bí mật
nhá.
- Cậu biết tính tớ rồi, tớ không phải đứa bép xép.
Ông chớp chớp mắt rồi ghé sát vào tai tôi, giọng trầm
trọng:
- Ông cụ bà cụ cậu bị lên địa chủ phản động rồi ...
Tôi chết điếng.
Tôi không tin ở tai mình. Lúc bấy giờ ở vùng chúng
tôi đóng quân đã qua bước giảm tô giảm tức, đang đi vào cải cách ruộng đất,
nhưng đơn vị chúng tôi chỉ học tập chủ trương chính sách để ủng hộ chứ không trực
tiếp tham gia công tác cùng các đội các đoàn. Trong học tập tôi được biết cải
cách ruộng đất do đảng lãnh đạo là một cuộc cách mạng long trời lở đất, là sự đổi
đời ở nông thôn, giai cấp nông dân vùng lên đánh đổ bọn cường hào gian ác. Thế
nhưng, tôi cũng như nhiều đồng đội của tôi, cứ nghĩ rằng ở đây, hoặc ở đẩu ở
đâu kia, mới có những tên địa chủ tàn bạo, ác độc, chứ những quân quỷ sứ ấy
không thể có ở quê mình, đừng nói gì ngay trong nhà mình.
- Nghe đâu lại còn Việt Quốc hay Việt Cách gì đó nữa
...
Tôi không còn nghe thấy gì nữa. Tôi gục xuống.
- Chắc cậu cũng chẳng biết hết những việc làm của
ông cụ đâu ... - tiếng ông Thạc văng vẳng bên tai tôi - nhưng chẳng có gì giấu
được quần chúng được phát động ...
- Làm gì có chuyện ấy được - tôi đứng phắt dậy, tôi
kêu lên, rền rĩ. Ông cụ bà cụ tớ hiền như đất ấy mà, nào có biết đảng phái là
cái gì.
- Địa phương gửi công văn đến, hỏi về cậu đấy.
- Hỏi về tớ?
- Phải. Tớ đã viết công văn trả lời sau khi hội ý
toàn chi bộ, bảo đảm cậu là cán bộ tốt.
- Chuyến ấy xảy ra khi nào?
Ông Thạc thở dài:
- Ba tuần rồi.
Tôi nhớ lại: có một cái gì đó không bình thường
trong ánh mắt của các đảng viên khi gặp tôi. Dường như họ tránh nhìn tôi. Trong
sinh hoạt cơ quan, mọi chuyện chỉ có đảng viên được biết, quần chúng chỉ có thể
đoán rằng có chuyện gì đó, xấu hoặc tốt, căn cứ thái độ của họ.
- Sao cậu không cho tôi biết?
- Nói sao được?! Nguyên tắc.
- Bây giờ cậu bảo tớ phải làm gì?
Ông Thạc suy nghĩ lung.
- Bây giờ cậu về nhà đi - ông nói. Đừng nói với ai cậu
đi đâu, chuyện đó mặc tớ lo. Đây là công lệnh, bản sao công văn đơn vị gửi chi
bộ địa phương, cứ cầm theo, phòng xa, có khi hữu dụng. Về đến nhà rồi, gặp được
ông cụ bà cụ rồi thì trở lại ngay đơn vị. Đấy là tất cả những gì tớ có thể làm
cho cậu.
Tôi nói:
- Ông Thạc đối với ông thật là tốt.
- Tôi không nói ông ấy xấu. - ông Hiếu đáp - Ông
nghe nốt câu chuyện đã.
Tôi lập tức lên đường. Đi suốt đêm. Suốt ngày hôm
sau. Vừa đặt chân vào nhà, tôi bị bắt ngay. Đám du kích ập đến, trói gô tôi lại.
Chúng quát tháo, chúng chửi mắng, không cho tôi kịp mở miệng. Mà chúng nó là ai
chứ? Toàn người quen kẻ thuộc cả, ông ạ, không hàng xóm láng giềng thì cũng người
cùng thôn, cùng xã. Nghe chúng nói với nhau tôi mới biết mẹ tôi không chịu được
hành hạ đã thắt cổ tự vẫn tuần trước, còn cha tôi sẽ bị bắn vào sáng hôm sau.
Tôi lặng đi. Tôi không khóc được. Nước mắt chưa chảy đã cạn. Mẹ tôi là một nửa
cuộc sống của tôi. Ngay cả khi sống xa nhà tôi vẫn cảm thấy mẹ ở bên tôi. Cha tôi
khác, tôi yêu cha, kính trọng cha, nhưng không gần gụi cha như gần gụi mẹ.
Tôi không tưởng tượng được cái tai họa giáng xuống
gia đình tôi lại lớn đến như thế, lại kinh khủng đến như thế. Đau đớn nhất là
cái sự tôi là bộ đội chẳng giúp được gì cho các cụ. Không mảy may. Ngày nay ai
cũng biết rõ rằng những khẩu hiệu "Người cày có ruộng," "Đánh đổ
bọn cường hào ác bá, nông dân giành lấy chính quyền," "Nông dân là
quân chủ lực của cách mạng" ... chỉ là những lời lừa mị. Nhưng lúc ấy
khác, lúc ấy chúng có một tác dụng ghê gớm.
Nông dân ào ào đi theo đội cải cách, hô những khẩu
hiệu đùng đoàng ấy đến khản tiếng, đến rạc người. Có thể họ chân thành tin ở cuộc
đổi đời mà đảng hứa hẹn, rồi đây họ sẽ trở thành những ông chủ bà chủ ở trong
làng, họ sẽ có những gì mà những người sang trọng có, có thể là như thế. Điều
tôi biết chắc là những con người khốn khổ hi vọng ở số quả thực sẽ được chia
ngay lập tức sau khi bọn nhà giàu trở thành kẻ có tội với cách mạng - một thúng
thóc, cái mâm đồng, cái phản gỗ, có khi là cả cái sập gụ cũng nên ...
Sáng hôm sau, tôi bị điệu ra trường đấu. Dân chúng cả
mấy xã tề tựu ở sân trường học của xã. Tôi đã nghe tiếng loa thúc giục mọi người
đi dự cuộc đấu "tên phản động đầu sỏ, tên cường hào gian ác, tên địa chủ
có nợ máu với nhân dân" từ khi còn tối đất. Trường học này đầy ắp những kỷ
niệm thời thơ ấu của tôi và của những người bạn học mặt sát khí đằng đằng lăm
lăm súng trường mã tấu đứng ở vòng ngoài.
Tôi nhìn thấy cha tôi, bị trói giật cánh khuỷu, bị
lôi đi xềnh xệch, bước chân lảo đảo, giữa một đám đông xỉa xói, gào thét, những
bộ mặt biến dạng với những đôi mắt đỏ ngầu, những cái miệng há to, nhớt dãi chảy
xuống ngực áo, giữa rừng cánh tay vung lên hạ xuống theo những khẩu hiệu đòi trả
nợ máu ...
- Kinh khủng! Hồi ấy tôi đang theo học ở Liên Xô nên
không được chứng kiến những gì xảy ra, chỉ được nghe kể lại, sau này ...
- May cho ông, ông là người gốc thành phố, chứ dân
nông thôn chúng tôi hồi ấy, chỉ cần hơi có máu mặt một tí là toi. Chẳng riêng
gia đình tôi, người cùng cảnh ngộ với chúng tôi nhiều vô số kể ... Tôi nói hơi
có máu mặt, tức là những người có của ăn của để, chứ không nói những người có
dư chút ít ruộng đất. Ở nông thôn miền Bắc nước ta, ông biết đấy, đâu có nhiều
địa chủ lớn. Gọi là địa chủ, chứ đó chỉ là nông dân khá giả, do chăm chỉ làm ăn
hoặc khéo sắp xếp thu vén mà hơn người. Hơn cũng chẳng nhiều, bất quá vài ba mẫu
là cùng, mà lại là mẫu ta.
Ông Hiếu thở dài.
- Có cần kể cho ông nghe chi tiết cuộc đấu không?
Ông Hiếu đặt câu hỏi, rồi im lặng hồi lâu, như thể
ông đang nhớ lại cảnh tượng hãi hùng mà ông không phải chỉ là người chứng kiến.
Ông là người trong cuộc, người chịu đựng.
- Đại khái là có một cuộc đấu kéo dài, một cuộc xử
án chớp nhoáng. Tất cả diễn ra trong những tiếng hô khẩu hiệu không ngớt. Rồi
cha tôi bị điệu ra trước bức tường xa nhất của trường học, nơi vẫn còn cái khẩu
hiệu do chính tay tôi viết năm 1945: "Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Minh vạn
tuế!" Cha tôi bị bắn ở đó. Trước khi bị bắn, cụ chằm chằm nhìn tôi, nước mắt
đầm đìa. Có vẻ cha tôi muốn nói điều gì đó với tôi nhưng không thể nói được -
trong miệng cụ là một búi giẻ bẩn thỉu, từ đó nhểu xuống đất những giọt dãi ...
- Cụ "đi" có nhanh không?
- Không - ông lắc đầu - Lúc đấu thì hùng hổ lắm,
nhưng đến lúc phải cầm súng bắn người thì hình như không ai muốn, hoặc người
nào cũng không muốn mình là người bắn viên đạn giết chết một mạng người, thành
thử những người du kích được phân công hành quyết đều bắn trượt trong loạt đạn
đầu tiên. Những "ông đội" "bà đội" phải hò hét, quát tháo
liên hồi, giật lấy súng chỉ cách cho họ bắn họ mới bắn được. Có vài viên trúng,
máu loang trên ngực cha tôi, nhưng cụ vẫn chưa nhận được viên đạn kết liễu. Một
"ông đội" mắt long sòng sọc chạy xổ đến bên cọc, rút súng lục, bắn
thêm một phát vào thái dương cụ mới "đi". Tôi nhắm mắt lại, không muốn
hình dung cảnh tượng gớm ghiếc đó.
4.
Chúng tôi ngồi bên nhau, im lặng rất lâu.
- Về sau này, khi nhớ lại những phút hãi hùng đó tôi
mới hiểu ra vì sao trước khi đưa những người gọi là địa chủ phản động ra đấu
chính thức, người ta bắt nông dân phải đấu lưng trước đã ...
- Đấu lưng?
- Vâng, đấu lưng. Tức là người bị đấu phải quỳ,
nhưng không được quay mặt lại đám đông đấu mình, còn những khổ chủ, những người
được "đội" bồi dưỡng để đấu thì xỉa xói vào lưng người bị đấu mà kể
khổ, kể tội ... Chẳng qua nếu những người nông dân hiền lành thật thà mà nhìn
vào mặt người hôm qua còn là họ hàng, làng xóm, tối lửa tắt đèn có nhau thì họ
không nỡ lòng nào bịa đặt ra những tội lỗi không có, không thốt nổi thành lời
những điều vu oan giá họa bất nhân, bạc ác như đội dạy được. Con người không phải
dễ dàng trở thành quỷ. Phải dạy dỗ, phải huấn luyện, ông ạ. Và không phải bao
giờ người ta cũng thành công. Có nhiều người thà chết chứ không chịu trở thành
quỷ.
- Tôi tin có những người như thế.
- Điều đáng buồn là một khi đã thành quỷ rồi thì khó
trở lại làm người lắm. Tôi có chú em họ, hồi cải cách ruộng đất còn nhỏ đã đi
theo đội học đòi đấu tố, lớn lên thì vào đảng, rồi làm quan, ăn bẩn, cho đến
khi về hưu không bị sứt mẻ gì, gọi là hạ cánh an toàn. Giàu có lắm, nhưng bị
người trong họ ngoài làng xa lánh. Cũng có người cực chẳng đã phải nhờ vả chú ấy
việc này việc khác, nhưng trong thâm tâm họ đều khinh bỉ. Chú ấy phân trần với
tôi: "Thời thế nó thế thì phải thế, ai cũng phải làm phải ăn, em cũng
không thể khác, người ta không hiểu em, chứ em có lòng dạ nào làm hại bà
con." "Nhưng họ khinh chú là phải chứ?" tôi hỏi. "Thì họ có
cách nào khác, yêu em à?", chú ấy bùi ngùi.
- Sau vụ ấy ông trốn vào thành?
Ông Hiếu tránh nhìn tôi.
- Vâng - ông nói khẽ. Tôi còn biết đi đâu?
- Tôi hiểu. Lúc ấy trong lòng tôi đầy mâu thuẫn thì
dúng hơn. Tôi không muốn rời bỏ hàng ngũ kháng chiến. Nhưng tôi cũng không thể ở
lại. Quên, chưa nói để ông biết, ông Thạc nhìn xa đã cấp cho tôi đủ giấy tờ cần
thiết để tôi không bị lôi vào cuộc đấu tố cùng với gia đình. Đội cải cách đã
tha cho tôi trở lại đơn vị.
- Nhiều người ở trong hoàn cảnh ông đã không
"dinh tê."
- Vâng, có người rồi còn trở thành cán bộ cấp cao nữa,
tôi biết. Họ phải trả giá đắt cho sự thăng tiến ấy, bằng sự dối trá thường
xuyên, bằng sự hàng phục tuyệt đối. Tôi không có đủ dũng khí, và lòng kiên trì
nữa, để làm được như họ. Khi đã ở trong thành rồi, có nhiều lúc tôi lại muốn trở
ra vùng kháng chiến. Có một sự giằng xé như thế đấy.
Sương xuống làm tôi rùng mình. Cả một vùng hồ
Bodenzee lặng lẽ như không lúc nào nó lặng lẽ như thế.
- Ông có gia nhập quân đội Pháp không? Tôi muốn nói
ông rồi có bị bắt lính và phải chiến đấu ở phía bên kia không?
- Không. Tôi trốn lính. Tôi không muốn cầm súng nữa,
dù ở bên này hay ở bên kia. Nhưng cũng phải thú thực với ông: sau cái chết của
cha tôi, cũng có lúc tôi có ý định đi với quân Pháp để đánh lại những kẻ đã
mang lại thảm họa cho gia đình tôi. Tôi cũng căm thù lắm chứ. Nhưng tôi đã
không làm điều đó nhờ một lời khuyên.
Chả là lúc mới về thành tôi ở nhờ trong một ngôi
chùa. Khi biết ý định của tôi, sư cụ bảo: "Con tính sai rồi. Đi với cái Ác
này để diệt cái Ác kia không được đâu. Chỉ có cái Thiện mới diệt được cái Ác
thôi, con ạ." Tôi nghe lời sư cụ, nhưng tôi không tìm thấy cái Thiện ở đâu
cả.
- Tìm ra cái Thiện đích thực thật là khó.
- Vì không tìm ra nó, tôi chỉ biết làm một người dân
bình thường. Nhưng đến năm 75 thì tôi hiểu - cái Ác đang thắng, nếu không làm
được gì để chống nó thì chỉ còn cách tránh xa nó, tránh thật xa, xa chừng nào
hay chừng ấy, có gọi là chạy trốn nó thì cũng đúng. Tuy chẳng có gì vinh quang
trong sự chạy trốn ấy ...
Chúng tôi đi ngủ. Đêm đã quá khuya.
Hôm sau, trong bữa điểm tâm, ông Hiếu đột ngột ra
cho tôi một câu hỏi lạ tai:
- Ông có nghĩ rằng cải cách ruộng đất là một sai lầm
như người ta thường nói không?
- Một sai lầm chứ. Đó là điều không thể chối cãi được.
Chính đảng cộng sản vốn không bao giờ chịu nhận mình sai, cũng đã thừa nhận là
thế. Người ta đã phải sửa sai ngay sau đó.
- Ông tin người ta có sửa sai?
Tôi có cảm giác ông Hiếu chỉ chờ tôi nói khẳng định
để cười vào mũi tôi. Hẳn ông có cách nhìn khác đối với việc ấy. Tôi gật đầu.
- Họ có sửa sai. – tôi nói - Nhưng có sửa đến nơi đến
chốn hay không lại là chuyện khác. Và còn phải sửa dài dài, bởi vì trang sử cải
cách ruộng đất cho đến nay vẫn chưa khép lại được. Nghe nói mới đây thành phố
Hà Nội vừa quyết định đền bù cho những gia đình có người bị giết trong cải cách
ruộng đất.
- Đền bù thế nào?
- Một hay hai triệu đồng gì đó cho mỗi người bị chết
oan.
Ông Hiếu cười khe khẻ:
- Tức là khoảng trên dưới một trăm đô la, theo tỷ hối
hiện tại.
- Khoảng ấy.
Ông Hiếu trầm ngâm nhìn vào ly cà phê.
- Tôi thì không nghĩ đó là một sai lầm. Nói cho
đúng, bây giờ tôi mới nghĩ được như thế. Trước kia thì không. Trước kia tôi
không nghĩ ra. Một sai lầm có tính toán trước rằng kết quả nó sẽ là như thế
nào, không thể gọi là một sai lầm - ông Hiếu thở dài. Người ta chỉ buộc lòng gọi
nó là sai lầm khi mưu toan của họ bị bóc trần.
- Cái gì làm cho ông nghĩ như thế?
- Ông nhớ lại xem. Ông sẽ thấy điều này: ở bất cứ quốc
gia nào, để tiến hành cải cách ruộng đất người ta phải điều tra tình hình ruộng
đất trước đã. Nhưng ở miền Bắc trước cải cách ruộng đất, ông thấy không, đã
không có một cuộc điều tra nào hết.
Tôi giật mình. Ý nghĩ ấy chưa từng đến với tôi.
- Ông có lý - tôi thừa nhận. Tôi hồi ấy ở một trong
những cơ quan trung ương. Tôi không được biết có một báo cáo nào về chuyện ấy.
- Người ta tính những cái mà hồi ấy chúng ta không
nghĩ tới. Người ta muốn thanh toán cho bằng hết những người đã ủng hộ cuộc
kháng chiến trong thời kỳ cách mạng còn trứng nước hiện đang giữ những chức vụ
trong chính quyền kháng chiến để thay vào đó những người hoàn toàn mới. Những
người mới này sẽ hoàn toàn là người của họ. Để làm gì? Để những kẻ được chia quả
thực cướp được kia, những kẻ bỗng dưng có được địa vị ăn trên ngồi trốc kia sẽ
hết mình với họ ... Chỉ có chúng mới là những kẻ rất mực trung thành với họ.
- Tôi muốn hỏi thêm ông một câu.
- Ông hỏi đi.
- Tôi nghĩ ông Thạc muốn ông được gặp mặt cụ nhà lần
cuối là một ý nghĩ tốt. Ông không nghĩ thế?
Ông Hiếu cười khe khẽ. Tiếng cười gằn nghe đầy cay đắng.
- Một ý nghĩ tốt chứ, tôi thừa nhận. Có khi nó còn tốt
hơn cả những gì tôi nghĩ nữa. Ông ấy đã giúp tôi tỉnh ngộ. Tôi phải chịu ơn ông
ấy. Nhưng tôi không cảm được cái ơn ấy trong lòng tôi. Có lẽ tôi tham lam
chăng, khi tôi cho rằng trong những ngày ấy tôi cần một cái gì hơn thế. Một cái
gì đó chứng tỏ ông ấy đứng về phía tôi, kẻ chịu đựng một bi kịch không đáng có.
Một cái gì đó chứng tỏ ông ấy không đứng về phía những tên đao phủ. Cái gì đó ấy
sẽ an ủi tôi nhiều hơn, sẽ cho tôi thêm một chút niềm tin đã mất vào con người
...
5.
Ít lâu sau cuộc gặp gỡ với ông Hiếu, tôi lại gặp ông
Thạc. Ông vừa về Việt Nam tham dự cuộc họp mặt truyền thống của quân khu. Ông
vui hẳn lên, khác với lần chúng tôi gặp nhau ở Stutgart. Ông kể chuyện những đổi
thay ở đất nước, chuyện Hà Nội khác trước đến không nhận ra, chuyện ông vừa được
nhận thêm một huân chương vì những công trạng trong quá khứ ...
- Ông đã gặp "Hiếu Nhà Băng" rồi hả? Hắn
nói sao?
Tôi lúng túng:
- Ông ấy vẫn nhớ ông. Nhưng ông ấy không muốn gặp lại
... Vì cuộc gặp lại ấy sẽ làm ông ấy nhớ đến những ngày ông ấy không muốn nhớ đến
nữa.
- Cái thằng ... Bây giờ mà không biết quên đi quá khứ,
hướng tới tương lai là ngu, là xuẩn ngốc. Nó y như mấy thằng đang đòi dân chủ ấy,
trong tụi nó có cả những thằng cánh ta ngày trước, tức là đã từng trong quân
ngũ, chúng nó mắt nhắm tịt, ương như cua, không biết rằng nước ta bây giờ dân
chủ lắm rồi, hơn hẳn ngày xưa rồi, ngày xưa không có nhiều dân chủ là do hoàn cảnh,
là chuyện bất khả kháng, chứ bây giờ khác, bây giờ đảng ta vững mạnh, có lực lượng
quân đội, công an hùng hậu, thì cho hay chưa cho, cho nhiều hay cho ít, là cái
quyền của đảng, đảng không keo xỉn trong chuyện ấy, vấn đề là phải có tính
toán; cho cái gì trước cho cái gì sau, cho bao nhiêu, cho vào lúc nào ...
Tôi nhìn ông. Ông nói say sưa. Ông bốc. Trong ông ấn
tượng của chuyến đi đầy tràn.
- Ông Hiếu gửi lời thăm ông. Tôi nói để mà nói.
- Thế hả? Nó chỉ gửi lời thăm thôi? Không nói thêm
gì nữa?
- Không.
Ông Thạc sa sầm mặt.
- Cái thằng vô ơn đến thế là cùng. Để lúc nào tôi kể
ông nghe đầu đuôi chuyện tôi đã làm gì cho hắn ... Bây giờ chúng mình kiếm cái
gì chén đã. Chắc ông đi đường cũng đói bụng rồi.
Tôi vội vã chìa tay ra:
- Xin lỗi, hôm nay tôi mắc một cái hẹn. Để bữa khác
vậy.
Trong lòng bàn tay tôi là một vật mềm, nhũn nhẽo.
- Ờ ờ ... Tiếc quá! Có bao chuyện muốn kể ông nghe.
- Tiếc quá!
- Nói tóm lại, thằng Hiếu là một thằng vô ơn, ông nhớ
đấy, tôi nói với ông rồi đấy. Ông Thạc nói theo, khi tôi đã ra đến cửa.
Vũ
Thư Hiên
No comments:
Post a Comment