Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
dựa theo chủ thuyết quốc tế hay cô lập?
Đỗ Kim Thêm
20/02/2023
Dù Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, nhưng Hoa Kỳ
vẫn còn là cường quốc quan trọng nhất trong trật tự thế giới hiện đại. Trong
các phân tích về chính sách ngoại giao hiện nay, chủ đề Hoa Kỳ luôn gây nhiều
thu hút cho công luận.
Nhìn trong toàn cảnh, dường như Hoa Kỳ luôn bị
dao động giữa hai thái cực của chủ thuyết quốc tế và cô lập. Tại sao tình trạng
này lại xảy ra? Những lý thuyết hay truyền thống nào làm cho Hoa Kỳ phải lâm cảnh
như vậy? Có những yếu tố nào khác đã gây ảnh hưởng không? Dĩ nhiên, đề tài này
đã có vô số sách vở bàn đến và đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau.
Nói chung, câu trả lởi đơn giản nhất cho vấn đề
là, diễn biến tùy thuộc vào hai khía cạnh chủ yếu, một là tình trạng của hệ thống
quốc tế luôn biến động và hai là Hoa Kỳ có còn là một tác nhân duy nhất tự quyền
định đoạt không. Vấn đề lý thuyết trong mối bang giao quốc tế trở thành tâm điểm
trong thế giới quan của người quan sát. Chính các khía cạnh khác nhau trong các
lý thuyết tạo nên các cuộc thảo luận dị biệt trong thực tế.
Nhưng trong lĩnh vực học thuật, đóng góp nổi bật
nhất là của Walter Russell Mead, tác giả Anh ngữ và Gebhard Schweigler, tác giả
Đức ngữ. Cả hai đã tổng hợp các đường lối chính mà bài viết của David Sirakov sẽ
được tóm lược sau đây.
.
Các lý thuyết
Theo chủ thuyết hiện thực, quốc gia sẽ dựa
theo quyền lợi tối thượng của dân tộc mà hành động. Trong việc lựa chọn một chiến
lược đấu tranh để sinh tồn, chính giới thường sử dụng bốn công cụ tiêu biểu là
ngoại giao, thông tin, quân sự và kinh tế, trong tiếng Anh viết tắt là DIME biểu
hiện cho Diplomatic, Informational, Military và Economic. Chiến tranh bùng nổ bị
xem là giải pháp bất đắc dĩ cuối cùng cho đại cuộc quốc gia.
Trong khi đó, chủ thuyết tương thuộc nêu rõ, hợp
tác là phương tiện vô cùng cần thiết để giải quyết các xung đột quốc tế. Do đó,
tình trạng ngày càng phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia chính là trọng tâm cần
tìm hiểu.
Ngược lại, để giải quyết các thách thức trong
tình hình quốc nội, chủ thuyết tự do đề cao vai trò của các chủ thể xã hội
trong một quốc gia trước khi các cuộc đàm phán quốc tế có liên quan có thể tiến
hành.
Do chiều hướng tâm lý xã hội luôn diễn biến phức
tạp, nên vai trò cảm nhận thực tại xã hội trong việc xây dựng đất nước gây ảnh
hưởng đáng kể đến trào lưu chung, kể cả trong các tranh chấp quốc tế; do đó, chủ
thuyết kiến tạo theo cấu trúc thành hình.
Gần đây, vai trò nữ quyền trong quan hệ giới
tính cũng là một trào lưu mới gây nhiều tiếng vang trên chính trường quốc tế.
Tuy nhiên, những phân tích về mặt lý thuyết
không còn đóng khung trong các công trình nghiên cứu hàn lâm, mà trở thành các
yếu tố định đoạt cho giới hoạch định chính sách.
Nhiều tác giả đã triển khai các mô hình lý
thuyết trong nhiều phạm vi riêng biệt. Nhìn chung qua các bối cảnh lịch sử khác
nhau, chính sách đối ngoại của Mỹ di chuyển theo hai trục chủ yếu: chủ thuyết
quốc tế (Internationalism) so với chủ thuyết cô lập (Isolationism)
với hai nội dung bao gồm thuyết hiện thực (Realism) hoặc duy tâm (Idealism).
Điểm khác biệt ở đây là Walter Russell Mead sử
dụng tên của ba tổng thống Hoa Kỳ và một bộ trưởng tài chính để đặt tên cho các
chủ thuyết, trong khi Gebhard Schweigler nêu ra các hình ảnh chủ yếu để mô tả nội
dung. Cả hai tác giả không đề cao một dạng nào là thuần túy hay duy nhất mà xem
tất cả trong một tổng hợp như sau:
Hình : https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/02/1-14-1024x529.png
Lập trường cô lập
Nhìn lại lịch sử lập quốc, Hoa Kỳ đã thể hiện
một thái độ cô lập đối với hệ thống quốc tế, tự xem mình như một mô hình quốc
gia kiểu mẫu và ý thức hệ luôn có vai trò định đoạt.
Hơn thế, Mỹ tự hào là tình trạng ngoại lệ (American
Exceptionalism) trong lịch sử thế giới. Hình ảnh nước Mỹ là một “thành
phố trên một ngọn đồi” (“City upon the hill“). Mỹ chỉ muốn cho nội tình
của Mỹ, một cộng đồng xã hội thu hẹp, được ổn định. Do đó, Mỹ cần tạo thêm nhiều
động lực khích lệ mẫu mực cho tinh thần đoàn kết nội bộ để cùng chung lo phát
triển. Lối suy nghĩ này cũng giải thích lý do tại sao các phong trào bài ngoại
phát triển mạnh tại Mỹ như là chuyện tự nhiên.
Trước đây, chủ thuyết ngoại lệ cũng có giải
thích theo cách hướng ngoại, “America number one” (Nước Mỹ là số một).
Do đó, Hoa Kỳ cũng nên mang các giá trị độc đáo ra nước ngoài. Về mặt truyền
giáo, Mỹ sẽ hoạt động như một quốc gia thập tự chinh, “crusade states“,
thậm chí có thể mang vũ lực ra thế giới để thực thi chính sách.
Sau này, ngược lại, cách giải thích “America
First” (Nước Mỹ trên hết) được hiểu với nhiều khía cạnh một cách rộng
rãi hơn là thuần về tôn giáo.
George Washington, một bậc quốc phụ, trong bài
diễn văn từ nhiệm vào năm 1796, đã nêu lên vấn đề ngoại giao quan trọng: “Why
quit our own to stand upon foreign ground?” (Tại sao chúng ta phải rời
bỏ đất nước mình để đứng trên đất nước người?) Chủ thuyết cô lập gợi lên một
tinh thần duy tâm và trở thành một lý tưởng cơ bản mà sau này Thomas Jefferson,
vị tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ (1801-1809), theo đuổi.
Theo quan điểm hướng nội của Jefferson, khi
nào Hoa Kỳ là một cộng đồng lành mạnh và hoạt động hữu hiệu thì mới có thể nắm
bắt các các cơ hội kinh tế để phát triển toàn diện. Jefferson kêu gọi người Mỹ
nên xác định quyền lợi quốc gia thành một lý tưởng hướng về một “more
perfect union, liên minh hoàn hảo hơn” mà phần mở đầu của Hiến pháp
Hoa Kỳ đã nêu rõ. Để được xứng đáng là một khuôn mẫu cho thế giới, trọng tâm
chính sách hoàn hảo là Hoa Kỳ nên tìm cách tránh tuỳ thuộc vào nước khác, thậm
chí cũng nên tránh chuyện chiến tranh bùng nổ.
Lúc đầu, Tổng thống Dân chủ Lyndon B. Johnson
(1963-1969) theo đuổi chủ thuyết cô lập mang đặc điểm duy tâm. Trong những năm
đầu nhậm chức, Johnson mang đến một làn gió mới khi hy vọng Hoa Kỳ sẽ hồi phục
tình trạng hoàn hảo thông qua các chương trình cải cách xã hội mà “Great
Society” (Xã hội vĩ đại) là thí dụ điển hình. Một trong nhiều mục tiêu
đối nội của Johnson là “Civil Rights Act 1964” (Đạo luật Dân quyền
1964). Luật được đặt ra nhằm thiết lập quyền bình đẳng cho người Mỹ gốc Phi và
chấm dứt sự phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử.
Nhưng về sau, khi bị ấn tượng mạnh là chiến
tranh Việt Nam sẽ còn kéo dài, Johnson đã bắt đầu phiêu lưu trong chính sách đối
ngoại. Trong chiều hướng nhằm thúc đẩy dân chủ hoá cho các quốc gia khác trên
thế giới, nỗ lực của Johnson cũng bị công luận quốc nội phản đối dữ dội bởi vì
các nhu cầu cải cách trong chương trình nation-building at home càng
ngày càng bức thiết. Cuối cùng, Johnson phải kết thúc các mục tiêu lý tưởng ban
đầu.
Trái ngược với truyền thống Jefferson của phe
cánh tả dưới thời Johnson, thái độ này hiện nay có thể được tìm thấy trong cách
giải thích của phe cánh hữu nhiều hơn giữa các đại diện theo chủ thuyết tự do
cũng như trong giới của Freedom Caucus, Đảng Tea Party.
Chủ thuyết cô lập mang nội dung hiện thực đi
ngược lại với chủ thuyết cô lập với đặc điểm duy tâm vì phương sách này hướng
ngoại nhiều hơn. Điểm khác biệt về cơ bản ở đây là thuyết hiện thực quan tâm đến
việc sử dụng quyền lực quân sự để bào vệ quyền lợi quốc gia.
Tiêu biểu cho chủ trương này là Andrew Jackson
(1829-1837), tổng thống thứ bảy của Hoa Kỳ. Ông là hiện thân của một tinh thần
dân tộc mang màu sắc dân túy để chống lại giới tinh hoa, hứa hẹn một “nước
Mỹ cho người Mỹ”.
Theo Jackson, Hoa Kỳ không phải có bất cứ một
nghĩa vụ đặc biệt nào để làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, mà nước Mỹ phải
lo an ninh xã hội và phúc lợi kinh tế cho người Mỹ, và chủ yếu là lo cho người
da trắng. Điểm quan trọng nhất trong việc hoạch định chính sách là chính phủ
càng ít can thiệp càng tốt và chính sách đối ngoại phải chịu phụ thuộc vào sinh
hoạt chính trị nói chung. Hậu quả của lối suy nghĩ này làm phát sinh các ác cảm
sâu đậm đối với các loại liên minh quốc tế.
Thực ra, chủ thuyết Jackson ủng hộ việc liên tục
mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ về miền Viễn Tây và Thái Bình Dương. Nhiều người ủng
hộ cho đây là số phận hiển nhiên (Manifest destiny) và muốn biện minh để
hợp pháp hóa một số động lực can thiệp khi Mỹ mở rộng biên cương.
Về bản chất, đó là về việc xây dựng một “Fortress
America” (Pháo đài Mỹ), hình ảnh này cũng là luận điểm chính của Gebhard
Schweigler.
Chủ thuyết Jackson đã định hình cho thái độ cô
lập của Mỹ trước Thế Chiến thứ hai. Nhưng khi Donald Trump được bầu làm Tổng thống
thứ 45 của Hoa Kỳ (2017-2021), thuyết này đã trở lại chính trường với sức mạnh
và niềm tin mới.
Ngay trong chiến dịch tranh cử năm 2016, tiềm
năng của Trump đã phát huy đến cực điểm khi ca ngợi truyền thống Jackson.
Walter Russell Mead lập luận rằng: “Donald Trump đang đóng vai trò như là người
thể hiện các hy vọng về quyền lực theo lý thuyết của Jackson”.
Nói chung, có những điểm tương đồng rõ ràng giữa
hai tổng thống, từ niềm tin nơi một chủ trương độc đoán và dân túy cho đến
chính sách ngoại thương theo tinh thần bảo hộ và cô lập.
Gebhard Schweigler lập luận trong năm 2008:
“Trong thời đại toàn cầu hóa, sống cô lập trong môi trường quốc tế vừa là không
thể được cũng như không ai mong muốn”.
Tình hình thay đổi triệt để. Truyền thống tư
duy theo Jackson trỗi dậy đã gây nhiều ngạc nhiên, vì chính giới không còn xem
nước Mỹ như là một pháo đài kiên cố.
Tiến trình toàn cầu hóa và chủ thuyết can thiệp
quốc tế của Mỹ trong thập niên 1970 đã gây ra phản ứng dữ dội trong công luận,
việc cử tri đưa Donald Trump vào Nhà Trắng đánh dấu một bước ngoặt trong việc
hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ.
Hô hào khẩu hiệu America First,
Trump nhìn cụ thể hơn khi coi các hiệp định thương mại là không công bằng, xem
các liên minh quốc phòng trong khu vực láng giềng quan trọng hơn và những liên
minh quốc tế, nhất là khối NATO, là lỗi thời.
.
Lập trường quốc tế
.
Nhìn chung, kỷ nguyên thực thi chủ thuyết can
thiệp quốc tế của Mỹ đã minh chứng là thành công. Việc Hoa Kỳ tham gia Thế chiến
thứ hai vào tháng 12 năm 1941 đánh dấu chủ thuyết cô lập từ nay kết thúc và Hoa
Kỳ đã thực sự vươn mình trỗi dậy là một cường quốc trên chính trường hậu chiến.
Chủ thuyết quốc tế theo tinh thần hiện thực tỏ
ra hữu ích đặc biệt trong bối cảnh phát triển này. Alexander Hamilton, Bộ trưởng
Tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ (1789-1795) và là đối thủ của Thomas Jefferson
làm đại diện chính cho trào lưu mới này.
Trái ngược với luận thuyết của Jefferson,
Hamilton coi việc duy trì và mở rộng lợi ích kinh tế là ưu tiên hàng đầu trong
chiều hướng phát triển của Mỹ.
Để đạt được lý tưởng này, Mỹ cần phải có một sức
mạnh quân đội tương đương với sức mạnh kinh tế, vì trong trường hợp quyền lợi
kinh tế Mỹ nguy khốn, quân đội Mỹ phải biết cách bảo vệ. Truyền thống này đề
cao các nguyên tắc tự do hải hành và tự do thương mại quốc tế. Vì quyền lợi này
là vô cùng thiết thực, nên luận thuyết này được công luận ủng hộ nhiệt tình.
“Battleship America” (Chiến hạm Mỹ), là
hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh vĩ đại của nước Mỹ và ý thức về sứ mệnh cao cả
của người Mỹ mà Gebhard Schweigler dẫn chứng.
Học thuyết Monroe bắt nguồn từ James Monroe
(1817-1825), tổng thống thứ năm của Mỹ, ông được coi là người tiên phong quyết
định cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Chiến tranh Lạnh với các cuộc xung đột ở Hàn
Quốc và Việt Nam, cũng như chính sách ngăn chặn đối với Liên Xô và Khối hiệp ước
Warsaw có thể được xem như là một cách thể hiện truyền thống của Hamilton. Các
can thiệp của Mỹ sau khi kết thúc cuộc xung đột Đông-Tây, Iraq năm 1991,
Somalia năm 1996 và Nam Tư cũ năm 1999 cũng đi theo chiều hướng suy luận này.
Tuy nhiên, những can thiệp cũng như cuộc chiến
Afghanistan năm 2001 và Iraq năm 2003 cho thấy Mỹ cũng đã gặp phải những cạm bẫy.
Thực ra, các mô hình lý tưởng này khó nhận ra
qua dạng thuần túy trong thực tế, ngay cả khi trường phái duy tâm cố biện minh
nhằm hợp pháp hóa cho các can thiệp nhân đạo.
Lập luận của Gebhard Schweigler rất thuyết phục
khi cho là cuối cùng, để giải quyết các cuộc xung đột, Mỹ phải tham gia chiến đấu
bằng các biện pháp quân sự có ý thức. Do đó, sự can thiệp ít có lý do duy tâm
hơn.
Nhưng Walter Russell Mead nhận xét khác hơn
khi cho là trong các nhiệm kỳ của Bill Clinton (1993-2001), George W. Bush
(2001-2009) và Barack Obama (2009-2017) có một cuộc xung đột giữa một bên theo
truyền thống của Hamilton, Jackson và Jefferson và một bên theo truyền thống của
Wilson. Cho đến nay, cuộc tranh luận học thuật này vẫn còn kéo dài.
Chủ trương can thiệp quốc tế theo tinh thần
duy tâm có lẽ được thể hiện rõ nét nhất qua Tổng thống Woodrow Wilson
(1913-1921), vị tổng thống mở đường cho Hoa Kỳ tham gia trong Thế chiến thứ nhất
năm 1917. Nổi tiếng khi tuyên bố “Thế giới phải được an toàn để xây dựng cho nền
dân chủ”, Wilson còn gây ảnh hưởng quyết định đến việc thành lập Hội
Quốc Liên.
Điểm chính trong chủ thuyết Wilson là bảo vệ
và mở rộng nền dân chủ bằng các biện pháp hòa bình. Khi mô hình dân chủ thu hút
được công luận, nó sẽ đóng một vai trò công cụ của chính giới trong việc thực
thi quyền lực mềm. Thoạt đầu, giới truyền giáo đã có những phản ứng mạnh và về
sau cũng có những xung đột triền miên giữa chủ thuyết Wilson với các truyền thống
khác.
.
Chiến tranh Lạnh kết thúc và sự phân hoá trong xã hội
Mỹ
Không phải ngẫu nhiên mà các chính sách đối
ngoại của các cựu tổng thống Clinton, Bush Jr. và Obama không thể được xếp vào
loại mô hình duy nhất nào, mà là thể hiện tổng hợp về một cuộc xung đột giữa
các truyền thống khác nhau. Có nhiều lý do để giải thích.
Một mặt, trước đó, Mỹ đạt được sự đồng thuận
lưỡng đảng trong nhiều thập niên. Arthur Vandenburg (1928-1951) Thượng nghị sĩ
Đảng Cộng hòa, lập luận rằng: “Chính trị thuộc đảng phái phải dừng lại ở
biên giới quốc gia“, có nghĩa là, các tranh chấp chính trị quốc nội không
được gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại. Hoa Kỳ phải nói với thế giới bên
ngoài bằng một lập trường duy nhất và mạnh mẽ. Lập luận này tác động tích cực
trong sinh hoạt quốc hội và tạo uy thế quốc tế cho Mỹ lớn mạnh.
Nhưng tình hình quốc tế thay đổi. Sau khi Chiến
tranh Lạnh kết thúc, nhà nước Liên Xô và Khối liên minh Warsaw biến mất. Khi
hai kẻ thù quan trọng không còn, Hoa Kỳ mở ra được một khả năng mới trong tương
lai và tìm ra các khái niệm tốt nhất cho chính sách đối ngoại, cụ thể là trong
hoàn cảnh bất chiến tự nhiên thành, vị thế cạnh tranh của Mỹ chỉ còn là tương kế
tựu kế. Cuối cùng, Mỹ là sẽ trung tâm quyền lực độc nhất trong một trật tự thế
giới mới.
Mặt khác, thực tế khác hẳn với mọi suy đoán. Từ
năm 1993 cho đến nay, mức độ phân hoá chính trị và xã hội của Hoa Kỳ đã lên đến
đỉnh điểm. Vì hai đảng không thể đạt được thỏa thuận về cơ bản trong nội tình,
nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự rối loạn chức năng trong sinh hoạt công quyền.
Dĩ nhiên, các rạn nứt này tác động tiêu cực đến chính sách đối ngoại.
Một trong số những thí dụ thể hiện rõ nhất là
việc kết ước quốc tế. Việc Mỹ ký kết chỉ có hiệu lực khi Thượng viện chấp thuận
với đa số 2/3 số phiếu. Luật thủ tục chấp thuận này được coi là tiêu chuẩn kim
bản vị của các nỗ lực nghiêm túc về ngoại giao và làm cho Mỹ gây được niềm tin
trong cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, những năm gần đây cho thấy việc
thông qua các điều ước quốc tế trở thành các trò chơi trong các tranh chấp
chính trị và ý thức hệ của hai đảng. Hậu quả tác hại này làm cho nhiều sáng kiến
về kết ước không còn được thông qua Thượng viện, vì chính giới hoạch định đo lường
được nguy cơ thất bại quá cao. Cuối cùng, uy tín quốc tế của Hoa Kỳ sút giảm
nghiêm trọng.
.
Thành tựu ngoại giao của Joe Biden
Trong hai năm đầu nhiệm kỳ, Joe Biden muốn đưa
nước Mỹ trở lại tình trạng bình thường và gây uy tín sau nhiệm kỳ tổng thống đầy
biến động của Trump, bằng cách cố thực hiện các cải cách mang tính đột phá.
Với khẩu hiệu “Nước Mỹ đã trở lại”, Joe Biden
đã thể hiện chủ trương hồi sinh chủ thuyết đa phương và hợp tác khu vực. Mỹ
tham gia trở lại hiệp định khí hậu Paris, hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới, thực
hiện các hội nghị thượng đỉnh đa quốc gia, tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán
để giải quyết các cuộc khủng hoảng khu vực và ủng hộ các giá trị dân chủ.
Đối với Châu Âu, Mỹ thể hiện các yếu tố thực tế
của truyền thống Hamilton, mà cụ thể là tăng cường mối quan hệ kinh tế và an
ninh. Ngoài ra, lý tưởng của Wilson được thực thi khi Mỹ rõ ràng nhấn mạnh đến
các giá trị dân chủ để tạo tinh thần đoàn kết trong các quốc gia phương Tây.
Đồng thời, Mỹ cũng kêu gọi người dân trong nước
phải tập trung vào việc xây dựng sức mạnh quốc gia và bảo vệ nền dân chủ đang
lâm nguy.
Dù điều chỉnh được các chính sách của Trump đối
với Trung Quốc, nhưng Biden mất thanh danh sau việc quân đội Mỹ triệt thoái vụng
về tại Afghanistan. Từ tháng 2 năm 2022, việc Nga xâm lược Ukraine là một nguy
cơ mới, bên cạnh các vấn đề bảo vệ an ninh cho Đài Loan và Biển Đông vẫn còn tồn
tại.
.
Triển vọng
Sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tổng thống vào
tháng 11 năm 2022, khó khăn hiện nay cho Hoa Kỳ trong việc định hình một chính
sách ngoại giao phù hợp càng chồng chất.
Kể từ năm 2023, Tổng thống Joe Biden phải làm
việc với hai đa số khác nhau trong hai viện của Quốc hội. Trong khi đảng Cộng
hòa chiếm đa số tại Hạ viện, Đảng Dân chủ có đa số suýt soát tại Thượng viện
(51/49). Phải đối phó với những hậu quả này, liệu Joe Biden có thể thành công
cho đến cuối nhiệm kỳ hay không, tương lai thật khó lường đoán.
Joe Biden đang cố gắng dung hợp cả hai truyền
thống, nhưng khó có được sự ủng hộ đa số Quốc hội trong mọi vấn đề. Một chủ
thuyết duy tâm hay hiện thực không thể giải quyết vấn đề bảo vệ Đài Loan hay ủng
hộ Ukraine. Việc Mỹ sẽ can thiệp quân sự tại Đài Loan hoàn toàn có những hậu quả
khác biệt với chiến tranh đang tiếp diễn tại Ukraine. Có lẽ các giải pháp trong
tương lai sẽ tuỳ thuộc vào từng quyền lợi hiện thực nhiều hơn là nguyên tắc duy
tâm phổ quát.
Các đại diện của đảng Cộng hòa theo truyền thống
hướng nội của Jackson vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh trong chính trường và công luận
Mỹ. Chính giới Mỹ không còn lý tưởng quốc tế đủ cao cả để hy sinh người lính Mỹ
cuối cùng, nhằm bảo vệ Đài Loan hay Nhật Bản. Người dân Mỹ lo âu cho tình trạng
lạm phát ngày càng gia tăng khi chiến tranh Ukraine còn kéo dài.
Các thành quả của phe theo Trump trong cuộc bầu
cử giữa kỳ vào tháng 11 năm 2022 là một chứng minh. Khi Trump chưa từ bỏ các ý
tưởng trở lại Nhà Trắng, còn nhiều thách thức khác mà Joe Biden phải đương đầu.
-----------------------
Tài liệu tham khảo:
Mead, Walter Russell (2017): The Jacksonian
Revolt. American Populism and the Liberal Order, in: Foreign Affairs No. 2
(2017), S. 2-7.
Schweigler, Gebhard (2008): Außenpolitik
(Länderbericht USA. Geschichte, Politik, Wirtschaft, Gesellschaft, Kultur), in:
Lösche, Peter/Loeffelholz, Hans Dietrich von (Hrsg.), Länderbericht USA.
Geschichte, Politik, Wirtschaft, Gesellschaft, Kultur, 5. aktual. und neu
bearbeitete Auflage, Bonn, S. 341-470.
Sirakov, David, 2022, Die USA zwischen Internationalismus und
Isolationismus
____________
Bài liên quan:
Áp dụng thuyết hiện thực trong
chính sách đối ngoại
Chiến lược đại cường mới của Mỹ
Mỹ cần hợp tác với Nhật, Ấn độ, Úc và Châu Âu để chống Trung Quốc
No comments:
Post a Comment