Gặp gỡ nguyên lãnh đạo các thế hệ, Đảng đề phòng nguy cơ bất ổn ở “thượng
tầng”
Bài bình luận của ông Phạm Quý Thọ- PGS,TS
nguyên Trưởng Khoa Chính sách Công, Học Viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế
hoạch- Đầu tư, Việt Nam
2023.02.24
.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các
lãnh đạo cùng nguyên lãnh đạo Đảng dự hội nghị hôm 6/2/2023 ở Hà Nội. Quốc
Hội
“Toàn trị” với bộ máy công an, quân đội, an
ninh hùng hậu “rất ít có khả năng sẽ ‘có biến’ từ bên dưới, với một phong trào
của quần chúng”. Nếu như xảy ra, thì sự thay đổi chỉ có thể đến từ “bộ phận thượng
tầng của ban lãnh đạo Đảng” – nơi Đảng luôn đề phòng nguy cơ bất ổn. Ngày 17/1
việc ông Chủ tịch Nước "xin” từ chức về hưu khi đương nhiệm tiếp ngay sau
hai ông Phó Thủ tướng Chính phủ bị “hạ bệ” là chưa có tiền lệ trong lịch sử Đảng.
Tuy nhiên, lý do không được công khai rõ ràng, chưa có quy chế về “chịu trách
nhiệm chính trị”, khiến khoảng một phần ba số Uỷ viên trung ương của Ban Chấp
hành khoá 13 và cũng với tỷ lệ như vậy số Đại biểu Quốc hội khoá 15 đã không đồng
ý trong các hội nghị được triệu tập bất thường mới đây. Sự kiện này chứa đựng sự
bất ổn ở thượng tầng.
Ngày 6/2, tại Trụ sở Trung ương Đảng,
trong cuộc gặp mặt nhân kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng CS mồng
3/2 và dịp đầu Xuân Quý Mão 2023 với các nguyên lãnh đạo “Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng
và tương đương”, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu mong muốn các vị
tiếp tục “có những đóng góp cho Đảng, cho nhân dân, cho đất nước…”. Cuộc gặp
này về hình thức mang tính “biểu tượng” nhưng hàm ý sâu xa rằng Đảng luôn “quan
tâm” đến họ.
Các “nguyên lão” của Đảng được coi là đối tượng
quan trọng của bộ máy cai trị đặc quyền đặc lợi, lợi ích của họ gắn liền với lợi
ích của Đảng với phương châm “còn Đảng còn mình!”. Mặc dù không trực tiếp “tham
chính” nhưng sự ủng hộ của họ là quan trọng bởi những mối quan hệ và tầm ảnh hưởng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chống tham nhũng, thanh trừng lên tới “vùng cấm”
và ngày càng khó khăn, Đảng muốn họ phải được quản lý, phải trong tầm kiểm
soát. Sự “cảnh giác” như một bản năng chuyên chế là có thể hiểu được bởi trong
thời kỳ Đổi mới đã có một số “sự cố nghiêm trọng” xảy ra ở thượng tầng. Dưới
đây là điển hình.
Trước hết là vụ ông Trần Xuân Bách
(1924-2006), nguyên Bí thư Trung ương Đảng, là người có chủ trương đa đảng ở Việt
Nam đã bị kỷ luật, phải ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương nhưng
không bị khai trừ khỏi Đảng năm 1990. Từ đó, ông ta đã bị “quản thúc” cho đến
ngày qua đời.
Vụ tướng Trần Độ (1923 – 2002), từng giữ chức
vụ Phó chủ tịch Quốc hội khóa 7 (1987-1992).Những phát biểu đòi đa nguyên đa đảng,
áp dụng mô hình chính trị phương Tây, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng CS bị
đánh giá là “vi phạm nghiêm trọng điều lệ Đảng viên” và, ông bị khai trừ khỏi Đảng
CS khi đã 59 năm tuổi đảng.
Ông Lê Khả Phiêu nắm quyền Tổng bí thư
hơn ba năm nhiệm giữa kỳ Đại hội 9 (1996-2001). Ông là người thay thế ông Nguyễn
Hà Phan, nguyên Trưởng ban kinh tế Trung ương, Phó chủ tịch Quốc hội bị kỷ luật
khai trừ Đảng năm 1996. Dưới thời cố Tổng bí thư Phiêu, Hội đồng cố vấn Trung
ương, từng tồn tại trong các khóa Đại hội 7, 8 và 9 của Đảng CS, bao gồm các
nguyên lãnh đạo trong “tứ trụ” và “có tiếng nói rất lớn trong tập thể lãnh đạo ở
Việt Nam, đã bị giải thể. Và, vì thế ông đã phải trả giá, tuy nhiên quyết định
này vẫn gây tranh cãi, có ý kiến coi là “sai lầm chính trị” và số khác cho là
quyết đoán.
Nguyên TBT Lê Khả Phiêu trong một phỏng vấn tại nhà riêng ở Hà Nội hôm
22/4/2009. AFP
Và mới đây, trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày
sinh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ngày 23/11/2022, nhiều báo chí đánh giá vai trò
to lớn của ông thúc đẩy chính sách Đổi Mới năm 1986. Ông được ví như "tổng
công trình sư" nhiều dự án táo bạo và được ca ngợi là lãnh đạo “vì dân”
như bí danh Sáu Dân của ông. Tuy nhiên truyền thông Nhà nước đã không nhắc
tới nhiều đề xuất của ông về chính sách phát triển đất nước, trong đó đặc biệt
về quan điểm “hoà hợp dân tộc”. Ông từng nói: "Chính kiến khác nhau, ý kiến
khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện
với nhau một cách sòng phẳng…"
Nhìn sang Đảng CS Trung Quốc “anh em” cũng thấy
hình ảnh như vậy, nhưng được “nâng tầm” bởi nền văn minh tập quyền lâu đời.
Các Hội nghị Bắc Đới Hà , truyền thống có từ thời Mao Trạch Đông, là
nơi diễn ra các cuộc gặp “hậu trường” chính trị quan trọng thường niên của các
chính trị gia, giữa các lãnh đạo đương nhiệm và cựu lãnh đạo nước này. Tuy
nhiên, dưới thời Tập Cận Bình các hội nghị kiểu này đã diễn ra “căng thẳng” bởi
các quy chế đảng, vốn được thiết lập dưới thời Đặng Tiểu Bình theo hướng nới lỏng
“toàn trị”, nay bị siết lại, thanh trừng phe phái quyết liệt, để ông Tập
tiếp tục kéo dài cai trị. Dường như, nhiều ý kiến không “ủng hộ” Tổng bí thư tại Hội
nghị Bắc Đới Hà năm 2020 trước Đại hội 20 khiến ông Tập không “hài lòng”. Bởi vậy,
sự cố hy hữu đã diễn ra trong phiên khai mạc Đại hội 20, khi nguyên Tổng bí thư
Hồ Cẩm Đào miễn cưỡng bị “hộ tống” rời khỏi nghị trường, bị coi là “trò diễn
thâm nho kiểu Tàu” - một cơ hội để ông Tập Cận Bình công khai thể hiện quyết
tâm không khoan nhượng với bất kỳ ai có thái độ, ý kiến khác biệt với ông ta,
và cũng có nghĩa là với Đảng.
Thực tế cho thấy việc quay lại chế độ chuyên
chế “toàn trị” của hai Đảng CS ở hai nước giống nhau “kỳ lạ”, có chăng chút
khác biệt về chiều kích và hình thức biểu hiện như đã nêu trong loạt bài trước*.
Trước hết, cả hai Đảng đều phải đương đầu với “nhà nước tư bản thân hữu” vì cải
cách thể chế chính trị không theo hướng kiểm soát quyền lực bằng đối trọng
chính trị để thích ứng với kinh tế thị trường. Tiếp đến, việc giải quyết quốc nạn
tham nhũng như hậu quả của thực trạng rối loạn này, Đảng đã kết hợp với thanh
trừng nội bộ bằng cách tập trung quyền lực tuyệt đối, trong đó ông Tập Cận bình
tiến hành “đả hổ diệt ruồi” và ông Nguyễn Phú Trọng phát động “đốt lò”… Chính
sách này cho thấy giới lãnh đạo Đảng CS Việt Nam nghiêng hẳn về Trung Quốc.
Những sự kiện trên cho thấy bất ổn chính trị
được cảnh báo, nguy cơ lớn dần bởi người dân “đứng ngoài cuộc” không chỉ trong
công tác cán bộ mà còn cả trong phòng chống tham nhũng. Và, việc quay lại chế độ
chế độ “toàn trị” khiến vấn đề thêm tồi tệ khi cơ chế công khai minh bạch và giải
trình trách nhiệm của quan chức trước nhân dân, những nguyên tắc cơ bản của dân
chủ, không được thiết lập. Quan điểm “dân là gốc” vẫn chỉ là tuyên truyền, và
phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân
thụ hưởng” - từng được là “điểm mới!” trong Văn kiện Đại hội 13 Đảng CS cũng chỉ
là khẩu hiệu khi những nguyên tắc dân chủ không được thể chế hoá, và vì vậy
không có cơ sở pháp lý, điều kiện để nhân dân tham gia.
Các nhà nghiên cứu chính trị chỉ ra rằng cơ hội
chuyển đổi dân chủ tối ưu đối với các chế độ chuyên chế “toàn trị” kiểu Trung
Quốc là chuyển từ một Nhà nước pháp trị (rule by law) sang Nhà nước pháp quyền
(rule of law), một Nhà nước chịu sự kiểm soát của luật pháp. Nghĩa là quá trình
cải cách thể chế cần phải thiết lập các quy định rõ ràng áp dụng cho người dân
thường, cho đến các quan chức cấp thấp hơn, rồi với cả chính bản thân Đảng. Việc
thực thi quyền lực cần phải được khống chế, kiểm soát thực sự về mặt Hiến pháp.
Tư pháp phải có quyền tự trị rộng rãi. Người dân phải được có thêm quyền tự do.
Tất nhiên, chỉ có cải cách chính trị theo hướng này, thì quốc nạn tham
nhũng mới có thể diệt trừ tận gốc, thể chế mới có thể phù hợp với thị trường,
tránh được bất ổn, và đất nước mới có thể phát triển bền vững.
---------------------
* Xem thêm:
-----------------------------------------------------------------
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
No comments:
Post a Comment