https://www.facebook.com/hungquoc.nguyen.771/posts/3072443983031893
Đầu năm 2010, Trịnh Hội về Úc, mang máy móc đến
văn phòng của tôi ở đại học để phỏng vấn vài câu cho cuộn băng ca nhạc về chủ đề
“Tôi là người Việt Nam” của Paris by Night. Thời gian giới hạn, tôi không nói hết
được ý nghĩ của mình.
Đại khái, tôi bảo: Cần ghi nhận là câu nói
“Tôi là người Việt Nam” từ miệng một người Việt đang sống ở hải ngoại khác với
câu nói “Tôi là người Việt Nam” từ miệng một người Việt trong nước. Với người
Việt trong nước, đó là chuyện bình thường, tự nhiên và đương nhiên. Với người
Việt ở hải ngoại, đó là một sự khẳng định đầy ý thức, một sự lựa chọn đầy tâm
huyết.
Bởi, trên thực tế và trên nguyên tắc, phần lớn
người Việt ở hải ngoại không còn hoàn toàn là người Việt nữa. Về phương diện địa
lý, họ sống rất xa Việt Nam, không phải ai cũng có cơ hội về thăm Việt Nam; về
phương diện xã hội, hầu hết các quan hệ của họ đều ở ngoài Việt Nam; đặc biệt,
về phương diện pháp lý, họ không còn mang quốc tịch Việt Nam, nghĩa là họ không
còn là công dân Việt Nam nữa.
Trong hoàn cảnh như thế, họ không đương nhiên
là người Việt Nam. Nhiều người, nhất là những người thuộc thế hệ thứ 2 hoặc thế
hệ một rưỡi, tức những người hoặc sinh ra ở hải ngoại hoặc ra ngoại quốc từ lúc
nhỏ, từ chối làm người Việt Nam. Họ hội nhập hẳn vào xã hội mới, không còn quan
hệ gì với đất nước và con người Việt Nam.
Tuy nhiên, đại đa số người Việt ở hải ngoại, đặc
biệt những người thuộc thế hệ thứ nhất, đều chọn lựa làm người Việt Nam, đều tự
định nghĩa mình, trước hết, là người Việt Nam; đều xem cái gọi là Việt Nam là bản
sắc chính của mình.
Trong cái gọi là bản sắc ấy, có nhiều yếu tố,
nhưng quan trọng nhất là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ không phải chỉ là một phương tiện
giao tiếp mà còn là một nơi chất chứa những ký ức tập thể và ký ức văn hoá của
một dân tộc. Nói tiếng mẹ đẻ là làm thức dậy cả một quá khứ của bản thân và gia
đình, hơn nữa, cả một lịch sử của dân tộc. Chỉ một tiếng “chú”, tiếng “bác”, tiếng
“cô”, tiếng “dì”, v.v… trong cách xưng hô, chúng ta đã nghe vang dậy dư âm của
một nền văn hóa làng xã dựa trên tinh thần gia tộc ngày xưa.
Có thể nói một cách tóm tắt thế này: là một
người Việt Nam, theo tôi, là kẻ, trước hết, có thể sử dụng tiếng Việt để liên
thông không những với những người khác trong cộng đồng mà còn với quá khứ, với
truyền thống, với lịch sử của dân tộc; và qua sự liên thông ấy, trở thành một
thành phần gắn bó mật thiết với cả cái khối cộng đồng và cái khối dân tộc vĩ đại
chung quanh mình.
Chính sự gắn bó ấy mới là yếu tố chính.
Câu “Tôi là người Việt Nam”, do đó, có nghĩa
là tôi thuộc về Việt Nam, tôi vui nỗi vui của Việt Nam, buồn nỗi buồn của Việt
Nam, tôi còn lưu luyến với quá khứ của Việt Nam và còn khắc khoải về tương lai
của Việt Nam.
Nói cách khác, nếu một lúc nào đó, chúng ta
hoàn toàn hờ hững với Việt Nam, mặc kệ Việt Nam, không cảm thấy có bất cứ sợi
dây liên kết nào giữa chúng ta và Việt Nam nữa thì chúng ta cũng không còn là
người Việt Nam nữa.
No comments:
Post a Comment