Học
tiếng Anh về “chính đảng”, tự hỏi Đảng Cộng sản có phải là một đảng hay không
Vincente Nguyen - Luật
Khoa
03/02/2021
Các định nghĩa về chính đảng xưa nay dường
như xa lạ với mô hình Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Phạm Minh
Chính, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam trong chương trình biểu diễn chào mừng thành công của Đại hội 13. Ảnh: Báo
Tuổi Trẻ.
***
Đại hội XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam chính thức kết thúc, để lại nhiều “dư vị” đối với các đảng viên của
riêng họ. Tuy nhiên, trong quần chúng nhân dân, không ít người vẫn thắc mắc,
quan hệ giữa đảng với nhà nước cuối cùng là thế nào? Có một vài bạn trẻ còn
không phân biệt được chính đảng (“political party”), hội nhóm (“association”),
công đoàn (“union”) hay tổ chức dân sự (“civil organisation”).
Khó lòng mà trách cứ các
bạn trẻ tôi từng gặp, hoặc kể cả những người lớn tuổi hơn. Đối với họ, đảng
chính trị (mà cụ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã trở thành một phần gắn liền
với công cụ quản lý quốc gia.
Bài viết này kỳ vọng có
thể cung cấp một cái nhìn cơ bản về lịch sử và ý nghĩa của thuật ngữ chính đảng,
hay “political party”.
Chính đảng phải hướng
tới bầu cử phổ quát
Chính đảng không phải lúc
nào cũng có chỗ đứng trong lịch sử chính trị thế giới. Mặc dù sự khác biệt về mục
tiêu và quyền lợi chính trị thì trong hình thái kinh tế xã hội nào cũng có,
khái niệm “faction”, tức phe phái, thường đã đầy đủ để mô tả sự phân
chia bè phái giữa các nhóm trong một thể chế chính trị nhất định.
Ngay cả đối với các phong
trào đấu tranh chống áp bức bóc lột – thường là những nhóm người tập trung lại
với nhau để lật đổ hay thay đổi thể chế chính trị – việc dùng vũ lực để đạt
chính quyền và dùng vũ lực để duy trì chính quyền rõ ràng không đủ để được định
nghĩa là chính đảng.
Ví dụ, hai phe Bảo Hoàng
(“Royalist Restoration”) và phe Cách mạng (“Revolution”) trong lịch
sử Vương quốc Anh thế kỷ 17 rõ ràng là hai thế lực đối địch nhau, là tập hợp của
các cá nhân có chính kiến, có quan điểm và mục tiêu riêng. Song họ chưa bao giờ
được các sử
gia xem là hai chính đảng.
Bàn về chính đảng, chúng
ta buộc phải dò lại lịch sử của Anh hay Mỹ, những quốc gia đầu tiên vận dụng hệ
thống đảng phái để giải quyết các tranh chấp chính trị trong hòa bình. Các tài liệu học thuật dẫn chúng ta đến định nghĩa của Edmund
Burke (1729 – 1797) trước tiên.
Theo chính trị gia – nhà
khoa học chính trị người Anh này, chính đảng là “một tập thể thống nhất của nhiều
công dân, cùng nhau thúc đẩy và nỗ lực vì lợi ích quốc gia (‘national
interests’), dựa trên một số nguyên tắc đã được đồng thuận trước đó”
(1770). Burke là một trong những thành viên quan trọng của Đảng Whig tại Anh.
Edmund Burke, một
trong những người đặt nền móng cho lý thuyết về chính đảng. Ảnh: Michael Hogue/
The American Conservative.
Cách tiếp cận này chưa hẳn
là đầy đủ, nhưng nó gợi ý một điều: mục tiêu chung của các chính đảng phải là lợi
ích quốc gia.
Đến hơn 17 năm sau, tức
năm 1787, James Madison, một trong những nhà lập quốc lừng danh của Hoa Kỳ, mới
cung cấp một định nghĩa trọn vẹn hơn. Theo đó:
“Chính đảng đơn giản là
các công dân, dù thuộc đa số hay thiểu số dân cư, những người tập hợp lại với
nhau và hành động vì sự thôi thúc của niềm đam mê lý tưởng chung (‘impulse
of common passion’), có thể đi ngược lại với mong muốn của các nhóm công
dân khác (‘adverse to the interest of others’), nhưng cũng vì lợi ích
lâu dài và tổng thể của cả cộng đồng”.
Như vậy, dù còn khá dài
dòng và hơi khó nắm bắt, Madison cho thấy chính đảng là một nỗ lực tập thể để
gây ảnh hưởng lên quá trình quản trị nhà nước, hoàn toàn có khả năng đi ngược lại
mục tiêu hay lợi ích của các nhóm đối lập, song không hề có tính đấu tranh hay
cách mạng.
Đến năm 1979, nhà khoa học
chính trị người Mỹ Leon Epstein mới cung cấp cho người đọc một định nghĩa dễ hiểu
dễ nhớ cho khái niệm chính đảng, đó là:
“Bất kỳ nhóm nào, bất kể
có được cấu trúc hời hợt ra sao, nhắm đến việc được bầu vào các vị trí chính
quyền dân cử (‘seeking to elect governmental officeholders’), hành động
dưới một nhãn chính trị chung (‘common political label’).”
Các nhóm lợi ích có thể đều
muốn nắm quyền lực nhà nước.
Các doanh nghiệp giàu có
có thể cũng muốn chính trị gia nắm quyền lực nhà nước là “người nhà”.
Các tổ chức dân sự, hội
đoàn hay công đoàn cũng có thể ưa thích hay không ưa thích một chính trị gia
hay một ứng cử viên nhất định.
Tuy nhiên, chỉ có đảng phái chính trị, với vị trí đặc biệt của nó trong việc
hình thành chính sách và tư tưởng, mới là tổ chức đại diện cho các nhóm, các
phe phái, các lợi ích khác nhau trong xã hội để tham dự vào những cuộc bầu cử
phổ thông (“participation in general elections”) và cạnh tranh cho các vị
trí, thẩm quyền công cộng (“gain public offices and mandates”).
Chỉ có các đảng
phái chính trị mới có thể tham gia cạnh tranh trong các cuộc bầu cử phổ thông. Ảnh:
AP.
Một chính đảng không phải
tham dự vào bầu cử phổ thông, hoặc đã tự kiểm soát quá trình bầu cử phổ thông,
dường như hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa ban đầu của khái niệm này. Họ vẫn có
thể gọi là một phe nhóm, một tập đoàn chính trị (“political junta” hoặc
“political group”). Nhưng rõ ràng dùng khái niệm chính đảng để áp dụng
cho họ không còn chính xác.
Chính đảng phải gắn
liền với dân chủ
Chính đảng đóng góp cho
dân chủ, và khái niệm chính đảng đóng góp quan trọng cho các chủ thuyết dân chủ.
Thông qua chính đảng, dân
chủ được thực thi với ba yếu tố: khả năng tiếp cận tới lãnh đạo (“accessibility
to leadership”), mục tiêu của cử tri (“voter goals”) và việc tham dự
vào chính trị (“political participation”). Sự thay đổi của bản chất một
chính đảng hoàn toàn có thể phản ánh được bản chất của một nền dân chủ.
Giả sử, nếu một chính đảng
được những nhóm chính trị gia đang tìm kiếm phiếu bầu (“office-seekers”)
tập hợp và lãnh đạo, khả năng tiếp cận lãnh đạo của cử tri (“electorate”)
luôn ở mức cao. Họ được gọi là cử tri chủ động (“active electorate”).
Tuy nhiên, nếu một chính
đảng dần biến thành một tổ chức chuyên nghiệp với bộ máy quan liêu (“organisational
bureaucracy”), lãnh đạo của chính đảng đó sẽ phải quan tâm đến lợi ích của
nội bộ mình nhiều hơn, và ít lắng nghe tiếng nói trực tiếp của các cử tri hơn.
Điều này không phủ nhận tầm
ảnh hưởng nhất định của công luận và các cử tri tới một chính đảng quan liêu.
Song những nhóm dân cư nhanh chóng bị biến thành các nhóm cử tri thụ động (“passive
electorate”), với các ý kiến chỉ được quan tâm hoặc chú ý trong các tình huống
đặc biệt quan trọng, gây ảnh hưởng đến tồn vong của tổ chức.
Trong đó, lý do duy nhất
một chính đảng của các office-seekers trở thành một tổ chức bureaucracy
là bởi vì họ không còn phải cạnh tranh với ai khác nữa.
Cơ cấu đảng phái
trong Nghị viện châu Âu (trái) và trong Quốc hội Việt Nam (phải). Đồ họa:
Wikipedia/ Luật Khoa.
Thái độ của chính đảng đối
với tư cách thành viên (“membership”) của đảng ấy cũng là câu trả lời
cho biết mức độ của một nền dân chủ.
Một đảng có thể xem cử
tri là nguồn lực để “khoan thai”, để tận dụng, để vận động, nhưng không xem cử
tri như là một phần không thể thiếu (“integral part”) của các hoạt động
của nó. Mô hình chính đảng này gọi là mô hình hạn chế thành viên (“limited
membership”).
Chính đảng dạng này sẽ
khác biệt rất nhiều với cái gọi là các “cỗ máy chính trị” (“urban machine”
hay “political
machine”), tức những chính đảng xem cử tri là nhiên liệu, là nguồn sống
và nguồn hoạt động của tổ chức.
Họ lấy trọng tâm trong việc
liên tục tuyển nạp, thu hút và gây chú ý đối với các cử tri mới, các cử tri
trung lập lẫn những cử tri ủng hộ chính đảng khác… để gây cảm tình và biến họ
trở thành thành viên của mình.
Các đảng theo dạng
“cỗ máy chính trị” xem cử tri là nguồn sống của mình. Trong ảnh, bà Thái Anh
Văn kêu gọi cử tri bầu cho Dân Tiến Đảng trong cuộc bầu cử tại Đài Loan năm
2020. Ảnh: The New York Times.
Điều này không nhằm khẳng
định rằng mô hình cỗ máy chính trị về bản chất luôn tốt đẹp hơn mô hình hạn chế
thành viên. Song nếu phân tích về mặt tham gia chính trị thực chất của người
dân, mô hình cỗ máy rõ ràng tạo điều kiện cho việc thực hành và học tập dân chủ
nhiều hơn. Ví dụ, bầu cử sơ bộ nội bộ các đảng phái Hoa Kỳ (“primary
election”) thật ra cũng hoàn toàn dựa vào cử tri chứ không phải dựa vào lá
phiếu của những đảng viên.
Từ đó, các “political
machine” thật sự giống với một đảng phái chính trị theo nghĩa một nhóm cá
nhân mong muốn có thể đại diện cho một bộ phận dân cư hơn. Trong khi đó, cách
biệt giữa người là thành viên đảng và người không phải thành viên đảng khiến mô
hình “limited membership” giống với một loại doanh nghiệp mua bán các sản
phẩm chính trị nhiều hơn. Họ có thể cần khách hàng, nhưng lợi ích của các “shareholders”
không phải lúc nào cũng trùng khớp với lợi ích của quần chúng nhân dân.
***
Với những đặc trưng khái
niệm và lịch sử phát triển nói trên, dường như Đảng Cộng sản Việt Nam hiện lên
lạc lõng và xa lạ. Điều đó khiến người viết tự hỏi sau nhiều lần đại hội đảng,
có còn nên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là một chính đảng hay không.
Tài liệu tham khảo:
Holfmeister & Grabow,
Political Parties, Functions and Organisations in Democratic
Societies. Singapore : Konrad Adenauer Stiftung (2011)
Wilbur C. Abbott, The Origin
of English Political Parties. The American Historical Review (1919)
Judith Chubb, The Social
Bases of an Urban Political Machine: The Case of Palermo. Political
Science Quarterly 96, no. 1 (1981)
Gerald M. Pomper, Concepts of Political Parties. Journal of Theoretical
Politics 4, no. 2 (April 1992)
No comments:
Post a Comment