Hà Sĩ Phu
16/12/2019
1/
Ba thứ chữ viết mà người Việt đã sử dụng
Về quan hệ giữa chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ tôi
đã một lần
đề cập, nhưng không thể (và không dám) bàn tiếp vì biết nói chuyện này vào
lúc ấy là không đúng lúc, có thể bị hiểu nhầm, vì liên quan đến một vấn đề
chính trị rất nhạy cảm và hệ trọng là âm mưu đồng hóa của Trung quốc và nhu cầu
Thoát Trung hiện nay.
Gần đây lại có cuộc tranh luận về chữ Quốc ngữ và
tôn vinh A. de Rhodes, nên thoạt đầu tôi cũng hy vọng vấn đề “văn tự” có thể được
đặt trở lại trên cái nền ngôn ngữ và văn hóa nói chung của Việt Nam một cách
khách quan, ngờ đâu tránh được “thằng Tàu” lại vướng “thằng Tây”,
vì cả Đông lẫn Tây đều đã dòm ngó, mê say “cô gái Việt” và quyết tâm chiếm đoạt,
nên người Việt đề phòng cả hai kẻ thù cũng có lý thôi. Nhưng mỗi nhóm người Việt
lại đề phòng một kiểu khác nên câu chuyện chữ viết của người Việt mới sinh rắc
rối.
Tiếng
nói và chữ viết là hồn cốt của một Dân tộc (Học giả Phạm Quỳnh từ 1924 đã linh cảm thấy quan hệ “Tiếng ta
còn thì nước ta còn” (1)). Bàn về chữ viết không phải chuyện
riêng về học thuật mà liên quan đến việc yêu nước và giữ nước tức liên quan đến
“chủ nghĩa yêu nước” Việt Nam. Vấn đề quả thực không đơn giản, nay cũng
xin góp một lời bàn.
Tiếng Việt ta là một ngôn ngữ đặc thù không giống
dân tộc nào, tuy theo thời gian có sự tu chỉnh và du nhập để thêm phần phong
phú và chính xác, nhưng trước sau vẫn chỉ là thứ tiếng Việt đặc hiệu rất đáng tự
hào ấy. Muốn ghi lại mọi điều bằng tiếng Việt có hai cách, cách kinh điển và phổ
quát là ghi bằng những ký tự tức chữ viết để cảm nhận bằng thị giác. Cách thứ
hai sau này mới có là ghi lại bằng âm thanh để cảm nhận bằng thính giác, nhưng
cách này có những hạn chế nên chỉ thích hợp trong một vài lĩnh vực, không thể
thay thế vai trò của chữ viết được.
Cách ghi bằng ký tự, tức chữ viết trải qua 3 thời kỳ:
– Thời kỳ đầu ta chưa có chữ viết phải mượn chữ của
Tàu (chữ Hán). Nhưng chữ Tàu tuy có giúp ta “ghi ra giấy” những điều muốn nói,
và tuy đã được Việt hóa bằng cách đọc theo âm Việt, nên gọi là chữ
Nho (2), nhưng tác dụng cũng rất hạn chế, bởi nhiều khi
vẫn chỉ là sự dịch nghĩa chứ chưa thể phiên âm được hết
tiếng Việt, càng không phải chữ của một “sinh ngữ” để giao tiếp phổ thông.
(Về ưu điểm và nhược điểm của chữ Nho sẽ nói thêm ở
phần sau).
– Trong hoàn cảnh còn biệt lập, phải tự thân tìm ra
một thứ chữ viết ghi lại đúng tiếng Việt của mình, cha ông chúng ta đã có sáng
kiến lợi dụng loại chữ tượng hình của Tàu (mà các cụ đã sử dụng rất thông thạo),
chế biến thành chữ Nôm (ghép nửa chữ lấy âm với nửa chữ lấy nghĩa), đọc lên trực
tiếp thành tiếng Việt.
– Đến thời kỳ thứ ba, do sự phát triển văn minh
không đều trên thế giới, xuất hiện một số nước đột xuất hùng mạnh, đi xâm chiếm
các thuộc địa và phát sinh chế độ Thực dân. Đối với các thuộc địa như Việt Nam,
nạn Thực dân tất nhiên là điều ĐẠI HỌA, nhưng về nhiều mặt, xét ra đó cũng lại
là điều ĐẠI PHÚC cho một nước còn chậm tiến! Xin hãy bình tĩnh để nhìn nhận
ra hai mặt rất đối lập, tương khắc nhưng tương sinh ấy để
có niềm vui bên cạnh nỗi buồn. Chính vì tác dụng nâng tầm văn minh cho thuộc địa mà chủ nghĩa Thực dân
lâu dần sẽ phải kết thúc.
Mẫu quốc muốn sử dụng thuộc địa một cách có hiệu quả
buộc phải đem vào thuộc địa những nền tảng của sự văn minh. Trong
cái mớ những nền tảng văn minh ấy có vấn đề chữ viết, thế là người Pháp
phải tìm cách tạo ra chữ viết cho dân Việt, tất nhiên họ dùng các mẫu tự La
tinh, nhưng tạo ra đủ 5 thanh sắc “sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng” để phiên
âm đúng 5 thanh điệu của tiếng Việt, đó là một sáng tạo xuất sắc và chính xác.
Đồng thời với sự bành trướng của Thực dân là sự bành trướng của tôn giáo, nhất
là đạo Gia tô, hai mặt này thường được phối hợp, nên người có công trong việc
hình thành và sử dụng chữ Quốc ngữ lại liên quan đến đạo Gia tô và Thực dân
Pháp xâm lược..
2/ Luận
về “chủ nghĩa yêu nước” (patriotisme) và liên quan đến thái độ đối xử với các
loại chữ viết ở Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước có thể ví như một
vec-tơ cường-lực cực mạnh nhưng chiều đi của nó có thể bị uốn nắn để sử dụng
theo mục đích của mình. Dưới ảnh hửơng của Đông và Tây, của Kim và Cổ, của Cộng
sản và chống Cộng, của miền Bắc và miền Nam đã hình thành những kiểu YÊU NƯỚC rất
khác nhau, tạm kể ra như sau:
– Yêu nước kiểu Cộng sản (yêu nước là phải yêu CNXH
và chịu sự lãnh đạo của ĐCS)
– Yêu nước kiểu Cộng sản cải biên (ca ngợi dân chủ
nhưng ghét Tư bản Âu – Mỹ, ghét chế độ thân Mỹ ở miền Nam)
– Yêu nước kiểu thân Tàu
– Yêu nước kiểu “sùng cổ, nệ cổ” cổ hủ
– Yêu nước kiểu tân thời “vong cổ” hoặc “bài cổ”
-Yêu nước kiểu “sính” Âu – Mỹ, bắt chước Âu – Mỹ kiểu
học đòi
– Yêu nước một cách dân chủ và tự chủ, sàng lọc và
tiếp nhận
Những kiểu cách yêu nước ấy, ít hay nhiều đều có màu
sắc khác nhau và, lạ một điều là đều ảnh hưởng đến thái độ ứng xử đối với ngôn
ngữ, đối với những gì liên quan đến chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Nôm.
Sau đây xin bàn về những thái độ ứng xử hợp lý và cần
thiết đối với các loại chữ viết đã có ở Việt Nam:
* Đối với chữ Quốc ngữ (chữ Việt
La tinh)
Chữ Quốc ngữ vượt xa chữ Nho và chữ Nôm về sự phiên
âm chính xác tiếng Việt, dễ học. dễ phổ cập đại chúng, dễ thâm nhập và giao lưu
với kho sách báo và nền văn minh hiện đại, nhất là “văn minh Internet” hiện
nay. Có thể nói không ngoa rằng sự hình thành chữ Quốc ngữ là một cuộc đổi đời
rất quan trọng cho ngôn ngữ và cho văn minh-văn hóa Việt Nam. Tôn vinh những
người đã giúp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ, một công cụ mang tính “tầm cỡ” vô
cùng lớn lao như vậy là sự biết ơn buộc phải có, càng không thể khước từ khi nhớ
đến truyền thống ân nghĩa “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của người Việt chúng ta.
Việc đặt tên họ cho những con đường chỉ là một sự nhớ
ơn tối thiểu. Nhưng việc tôn vinh này gặp một trở ngại tâm lý về Tôn giáo và
“chủ nghĩa yêu nước Việt Nam” khi người cần tôn vinh ấy lại chỉ nhằm MỤC ĐÍCH
bành trướng Tôn giáo hoặc chế độ Thực dân của họ. Xem xét mọi việc theo MỤC ĐÍCH, theo “động cơ” là cách
suy nghĩ đơn giản, cũ kỹ và sai lầm.
Chủ nghĩa duy cảm và “duy
đạo đức” thường quan tâm trước hết đến MỤC ĐÍCH của chủ thể hành động.
Nguồn gốc của kiểu tư duy Duy cảm là lối suy diễn từ trong
lòng mình, trong tim mình mà ra. Nào là Suy tiểu nhi tri đại (suy
từ việc nhỏ mà biết việc lớn), suy kỷ dĩ cập nhân (suy từ bản
thân mình mà biết người khác cũng vậy). Ai nghe như thế cũng lấy làm phải: MỤC
ĐÍCH tức ý muốn chủ quan quyết định hết thảy, làm cách này không được thì ta
tìm cách khác cho kỳ thành công mới thôi, và nghĩ rằng MỤC ĐÍCH cuối
cùng sẽ biện minh cho phương tiện (dù phương tiện lúc đầu bị coi
là xấu)!
Nhưng thực ra lối tư duy Duy cảm rất
chân thành ấy rất dễ mắc sai lầm. Trong môi trường phức tạp và biến động người
ta có thể công bố một mục đích khác với mục đích thật trong lòng, và nếu dùng
phương tiện không thích hợp thì kết quả khách quan cuối cùng (mà triết học gọi
là CỨU CÁNH) sẽ phản lại mục đích mà người ta mong muốn, ấy là trường hợp chủ
nghĩa Cộng sản. Chỉ kết quả khách quan cuối cùng, tức CỨU CÁNH (chứ
không phải MỤC ĐÍCH) mới đủ tư cách biện minh cho phương tiện!
Nền văn minh cổ điển Pháp mà rất nhiều trí thức Việt
Nam chịu ảnh hưởng thường có xu hướng duy cảm, lý tưởng hóa,
chuộng lý thuyết, đạo đức sách vở, xét việc theo “động cơ”. Trong khi nền văn
minh Anh Mỹ thường theo kiểu thực dụng, xét việc theo hiệu quả cuối cùng tốt
hay xấu, lợi hay hại, và nhờ thế họ phát triển nhanh và thanh thoát hơn, Việt
Nam chúng ta nên học cách tư duy thực tiễn này mới thanh thoát được. Vì thế,
hãy nhìn chế độ Thuộc địa theo tương quan vừa là “đại họa” vừa là “đại
phúc”.
Hãy cảm ơn những khó khăn, thậm chí cảm ơn kẻ đối lập,
cảm ơn kẻ thù, dù mục đích của họ muốn chống lại ta nhưng hiệu quả nếu làm cho
ta trưởng thành thì ta vẫn “cảm ơn”, nhất là vì muốn lợi dụng ta mà “vô tình”
đã dâng hiến cho ta một thành phẩm quý giá như chữ Quốc ngữ, thì ta tạc tượng
ghi nhớ, ấy là phong cách “đại nhân quân tử”, tư cách “người lớn”và tự trọng.
Con người cần có kẻ đối lập mới mau trưởng thành, một đảng cánh tả cần có một đảng
cánh hữu đứng song song như Phan Châu Trinh đã linh cảm thấy ích lợi của mối
quan hệ tương khắc tương sinh này. Vả lại, trong quan hệ quốc tế đã có lời răn:
Không có kẻ thù vĩnh viễn hay bạn thân vĩnh viễn!
* Đối với chữ Nho và chữ Nôm (chữ
Việt tượng hình)
Tính năng làm ký tự để phiên âm tiếng Việt thì chữ
Nho và chữ Nôm kém xa chữ Quốc ngữ nên ngày nay không cần dùng các thứ chữ ấy để
viết nữa, nhưng đối với hai thứ chữ đó ta không được quên và không thể quên đi,
vì chẳng những các chữ đó đã ghi lại trong sách vở và các di vật của cả một quá
trình lịch sử của Dân tộc, mà trong quan hệ tương tác thuận nghịch giữa
chữ viết và tiếng nói, các chữ Nho và chữ Nôm đã “thâm nhập” một cách cội rễ
vào tiếng Việt, vào lời ăn tiếng nói và cả sinh hoạt của người Việt. Không
thể coi sự thâm nhập ấy như sự vay mượn ngôn ngữ thông thường mà nước nảo cũng
có. Tiếng Việt cũng du nhập thêm tiếng Anh, tiếng Pháp nhưng không thể so với
quan hệ giữa tiếng Việt và chữ Nho.
Nhưng chữ như Tổ quốc, độc lập, tự do, hạnh
phúc… chẳng hạn, thì cứ cho là sự vay mượn của Tàu, nhưng không một dân tộc
nào lại đi vay mượn những tiếng có tính “gốc rễ nguyên thủy” mà Dân tộc nào
cũng phải tự có từ lúc phôi sinh, từ lúc biết nói tiếng người như “thân thể,
quần áo, gia đình, tổ tiên, ông bà, học sinh, trường học…”. Những tiếng ấy
đều là tiếng trong “chữ Nho chính cống” nhưng không ai coi đó là những tiếng du
nhập, bởi cái “Nho” ấy cũng là “Việt đích thực” mà thôi (ví dụ các chữ 裙襖-翁婆 tuy viết ra là chữ tượng hình nhưng cũng đọc là “quần
áo-ông bà” như chữ Việt La tinh, rất nhiều chữ Nho cũng là cách phiên
âm tiếng Việt như chữ La tinh). Chữ Nho là con đường trung gian giữa Phiên âm
và Dịch nghĩa.
Cứ tạm dùng con số 4 nghìn năm là lịch sử dân tộc Việt
thì cái văn minh gắn với chữ La tinh mới trên một trăm năm thôi! Mấy nghìn năm
văn hiến Việt Nam chẳng những lưu dấu trong chữ Nho, chữ Nôm, mà do tác động
tương hỗ của chữ viết và tiếng nói (của văn tự và ngôn ngữ) cái hay cái đẹp,
cái công sức cha ông thuở dùng chữ Nho, chữ Nôm đã ăn sâu vào tiếng nói Việt
Nam, vào tâm hồn Việt Nam, vào phong cách Việt Nam, mà tự nhiên đến mức ta
không hề nhận ra.
Một người Việt mù cả chữ Nho lẫn chữ Quốc ngữ cũng
nhiều khi nói ra những câu “thuần Nho”, ví dụ nói “ông bà đối xử thật tử tế,
toàn gia đình nội ngoại vô cùng kính phục”, viết chữ Quốc ngữ hay chữ Nho
(viết nguyên văn theo âm chứ không phải là dịch nghĩa): 翁婆對處寔仔細-全家廷内外無窮敬服, khi đọc các chữ
lên cũng như nhau, đều là tiếng Việt cả thôi! Các trí thức, các nhà văn Việt
Nam thì trong câu viết, câu nói càng đầy những chữ của nhà Nho. Chẳng hạn một
nhà văn VN yêu nước viết “toàn thể nhân dân Việt Nam tự hào về
truyền thống anh dũng bất khuất, kiên quyết đấu tranh chống ngoại bang xâm lược,
kiên quyết Thoát Trung bất kỳ hoàn cảnh nào”.
Nếu viết chữ Nho: “全体人民越南自豪 về 傳統英甬不屈, 堅決鬥爭 chống 外邦侵略, 堅决脱中不期完境 nào” thì trong 33 tiếng ấy chỉ có 3 tiếng “về”
“chống” và “nào” là thuần Việt (3 tiếng thuần Việt này
cũng có thể dùng ký tự tượng hình nếu dùng chữ Nôm), còn 30 chữ Nho kia đọc lên
chính là tiếng Việt, vậy chữ Nho đã thành chữ của tiếng Việt trực tiếp một phần
lớn, chứ không chỉ dịch nghĩa như dịch ra một ngoại ngữ!
Chữ Nho và tiếng Việt lồng vào nhau đến mức như thế
thì chữ Nho nếu không phải gốc Việt thì sự “vay mượn” này cũng xảy ra ngay từ
thuở Dân tộc khai sinh, và đã nghiễm nhiên thành tài sản và cung cách của ta
lúc nào không biết. Chữ Nôm, và có thể cả chữ Nho, phải được coi là chữ
Việt cổ. Giang Văn Minh đấu tranh với vua Tàu bằng câu đối Đằng
giang tự cổ, Trần Hưng Đạo viết bài thơ Nam quốc sơn hà như
bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, Nguyễn Trãi giương ngọn cờ yêu nước chống Tàu
bằng Bình Ngô đại cáo… đều dùng thứ chữ Việt cổ ấy cả. Nếu coi đó
là của nước ngoài hoặc của kẻ địch mà bỏ quên nó, loại trừ nó
ra khỏi vốn liếng của Dân tộc mình là tự mình dại dột vứt bỏ một sức mạnh của
chính mình mà thôi. Xu hướng canh tân đến mức “vong cổ” hay “bài cổ”, theo tôi
nghĩ là mất gốc. Mất gốc thì không nền văn hóa nào có thể còn sức mạnh.
Với người Việt, chữ Nho không phải một
ngoại ngữ như Trung văn (Trung văn phát âm theo Bắc Kinh và theo
đúng văn phạm Trung quốc). Học Trung văn phải phát âm như người Tàu (Bắc Kinh)
và do đó có thể nói chuyện trưc tiếp với người Tàu, như học Anh văn, Pháp văn,
Nga văn thì có thể nói chuyện với người của các nước ấy. Nhưng học Hán văn
không phải như thế. Chữ Nho đọc theo âm Việt với đủ năm dấu Sắc-Huyền-Hỏi-Ngã-Nặng,
nhiều âm khác xa với người Tàu. Học Hán văn tức học chữ Nho rồi, nhưng chỉ có
thể bút đàm với người Tàu, chứ đọc lên thì hai bên đều
như vịt nghe sấm, chẳng hiểu nhau nói gì. Người Việt lúc chưa có chữ viết lại bị
Tàu đô hộ tất nhiên chỉ biết chữ Tàu, nhưng bản năng độc lập tự chủ đã khiến
người Việt biến chữ Hán thành chữ Nho như vậy.
Cha ông ta thuở còn “hàn vi” phải dùng chữ của nước
ngoài đã tìm cách Việt hóa để cố gắng biến thành của mình như thế. Vậy mà ngày
nay, ta đã có chữ Quốc ngữ để phiên âm tiếng Việt quá hoàn hảo, lại có kẻ muốn
sửa chữ Quốc ngữ cho “na ná” như giọng của Tàu, thậm chí khiến không đọc được
các sách cũ, thì thật là cách làm ngược với công lao của tiền nhân, chẳng phải
là một lũ hậu sinh vong bản, bất hiếu với cha ông và bất trung với Dân tộc hay
sao?
Ngày nay, nếu được trang bị một vốn cổ thích hợp sẽ
khiến cho tâm hồn Việt Nam được đầy đủ, sung mãn hơn nhiều. Sự thu nạp những
nét văn minh mới của thế giới cũng giống như thuật ghép cây mà Phan Châu Trinh
đã hình dung. Muốn ghép cành mới thì trước hết cái gốc phải thật mạnh, thật vững
chắc. Gốc đã yếu (thiếu nền tảng), đã lung lay, mà ghép cành mới vào có thể làm
chết cả gốc lẫn ngọn. Biết thêm một ngoại ngữ đã là một vốn quý, huống chi cái
vốn quý ấy bản chất là của chính mình thì càng thiết thân biết chừng nào?
Cái vốn ấy không phải chỉ hiện diện trong quá khứ,
mà bây giờ và mãi về sau vẫn nằm sâu trong tâm hồn và ngôn ngữ Việt Nam. Nền
giáo dục và Văn học Việt Nam cần có những chương trình dài ngắn thích hợp về chữ
Nho, chữ Nôm, tức một loại chữ Việt cổ cho học sinh Trung học và Đại học, cho
các lớp bồi dưỡng nhà văn, nhà báo, nhà chính trị… Thiếu kiến thức tối thiểu về
chữ Việt cổ ấy, chẳng những sẽ thiếu hiểu biết cội nguồn dân tộc, mà còn không
thể hiểu và sử dụng tiếng Việt một cách thành thục được.
(Viết đến đây tôi chợt nhớ một chữ gốc Nho nhưng vì
không biết chữ Nho nên khá nhiều nhà báo nhà văn “tầm cỡ” cũng viết bậy, đó là
hai chữ “cứu cánh” (究竟 là cái kết quả cuối cùng) cứ được dùng với nghĩa “cứu
giúp, cứu thoát”. Lỗi này đã nhiều người viết bài cảnh báo nhưng hầu như vô tác
dụng, như đàn gẩy tai… nhà văn XHCN vậy).
Việc Trung quốc có âm mưu muốn lợi dụng chữ Tàu, tiếng
Tàu, văn hóa Tàu, văn học Tàu, triết học Tàu cũng như đưa người Tàu, hàng hóa
Tàu vào để “Tàu hóa” toàn cõi Việt Nam, đó là việc của họ mà ta cần chống lại.
Nhưng không vì thế mà nhầm lẫn, mà xa rời rồi từ bỏ vốn liếng của dân tộc mình
nằm trong ngôn ngữ và chữ viết cũ của mình, đó là tự làm mất sức mạnh của mình.
Vốn cổ ấy không phải của Tàu, ngược lại đó còn là sức mạnh để chống Tàu xâm lược
và đồng hóa. Mất gốc, không một nền văn hóa nào có thể có sức mạnh dù tất cả có
được hiện đại hóa để trở thành các “cư dân mạng – Netizen” để liên
kết với toàn thế giới chăng nữa.
______
Chú
thích:
(1) Bài diễn thuyết về Truyện Kiều và tiếng
Việt này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8
tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức
của ông tổ chức. Bài được đăng lại tại Tạp chí Nam Phong số 86. Bài diễn thuyết
này mở đầu cho một cuộc tranh cãi nổi tiếng vào đầu thế kỷ XX, được người sau mệnh
danh là Vụ án truyện Kiều.
(2) Việc gọi tên chữ Nho hay chữ Hán
chưa thật thống nhất. Hồi còn nhỏ tôi được học các sách Tam Tự kinh, Ấu
học ngũ ngôn thi, Sơ học vấn tân, Luận ngữ, Mạnh tử chính văn…thì các cụ chỉ
bảo đó là học chữ Nho, không ai gọi đó là chữ Hán bao giờ.
Trái lại, khi học Trung học đệ nhất cấp, ban Sinh ngữ, ở trường Nguyễn Trãi (Hà
Nội) thì bên cạnh Pháp văn (6 giờ 1 tuần), Anh văn (4 giờ) có 4 giờ cho Hán văn.
Mặc dù học Hán văn nhưng vẫn gọi chữ Nho chứ không gọi
là chữ Hán.
---------------------------------
Hà Sĩ Phu
16/12/2019
3/ Chuyện
nhỏ mới về Menras Hồ Cương Quyết, cũng hơi buồn một chút, nhưng mang đầy thông
điệp hữu ích
Cái tên kép André Menras – Hồ Cương Quyết đã đại diện
cho tấm lòng và lập trường rất Quốc tế Vô sản của người đảng
viên hai quốc tịch Pháp-Việt. Nhưng ông Tây họ Hồ này “cương quyết” đến mức còn
mang tính Việt Nam hơn nhiều người VN chính gốc, và CS hơn rất
nhiều người CS.
Người nước ngoài có yêu VN thường chỉ yêu văn hóa
VN, yêu con người VN, nhưng Menras yêu đến cả biên cương hải đảo VN, và khi thấy
quê hương thứ hai này bị xâm lấn dã man thì ông đã “ngạc nhiên đến phẫn nộ,
nhiều đêm không ngủ được” trong khi vô khối người VN vẫn ngủ ngon vì
chẳng thấy đau, chẳng có chút gì ngạc nhiên và phẫn nộ.
Ông đau và phẫn nộ chẳng những ngang nhiên mặc áo
NoU đi biểu tình mà còn làm phim Hoàng Sa VN-nỗi đau mất mát đem
chiếu khắp nơi. Yêu đến như thế, thiết tưởng người được yêu phải cảm động đến
run người và nâng niu ông hết mực, ngờ đâu chủ nhà lại cho người bám sát, nói xấu
và cấm đoán ông bênh vực VN, bênh vực người mình yêu, vì bênh vực như thế thì
xúc phạm đến kẻ thù xâm lược mà chủ nhà đang có nhiệm vụ phải bảo vệ (!). Sự
ngược đời trái khoáy đến mức trời cũng không hiểu được ấy khiến trái tim yêu của
ông không còn dám “thổn thức vì yêu” nữa mà bị trật khấc lộn xèo muốn nát vụn,
buộc ông phải hồi hương về cái quê hương thứ nhất của ông. Lúc mới tới nước Việt
ông “cương quyết” bao nhiêu thì khi phải xa rời nơi mình trót yêu, ông lại
dùng dằng đau xót bấy nhiêu. Và thốt ra lời “Rời đi là chết đi một chút”
(Partir, c’est mourir un peu).
Câu chuyện tình thế là sang bước ngoặt.
Lứa chúng tôi rơi rớt từ thời kỳ thuộc Pháp, được học
tiếng Pháp chàng trai nào cũng nhớ câu phương ngôn Pháp “Aimer, c’est mourir
un peu!” mà Xuân Diệu dịch thành thơ là “Yêu là chết trong
lòng một ít”. Câu phương ngôn thật ý nhị, đánh trúng nỗi lòng những kẻ
chớm yêu: Yêu là chết đấy, chẳng sung sướng gì đâu! Nhưng
lại dỗ dành: chết một tý để biết xuýt xoa mê đắm thôi mà, đừng sợ!
Chúng tôi viết câu phương ngôn Pháp vào sổ tay carnet, để bên
bàn học. Nay thấy ông Menras than thân như vậy chúng tôi đồng cảm và thấu hiểu
ngay nỗi lòng. Nhưng muốn thêm vào câu than của Menras mấy chữ “encore une
fois” (Partir, c’est mourir un peu. encore une fois!), bởi khi yêu VN là đã
“chết đi một chút” rồi nay phải dứt áo ra đi cũng chẳng sướng gì, có chết đi
cũng là chết thêm một lần nữa. Hoặc thêm hẳn cho nhau một câu “Mourir, c’est
se réveiller un peu!” (Chết, là tỉnh ngộ được một chút đấy!).
Việt-Pháp là một mối tình đậm sâu mà oan nghiệt.
Pháp là căn cứ địa của Tình yêu Cộng sản lý tưởng, là an
toàn khu của Trái tim CS trong công cuộc chiến đấu chống áp bức bất
công của thế gian. Nhưng đội lên đầu một Trái tim lớn quá, nặng quá,
cũng khó mà đi đến đích. Trái tim Cộng sản si tình thật đáng quý,
đáng yêu, nhưng thật đáng thương vì chắc chắn nó bị phụ tình. Chính
trái tim thi sĩ Xuân Diệu, người đã bị hút hồn bởi câu phương ngôn Pháp “Yêu
là chết trong lòng một ít”, và bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp, đã “thổn thức”
như sau, như một lời tâm sự gửi Menras hôm nay:
Yêu,
là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
Phút
gần gũi cũng như giờ chia biệt.
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
– Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
– Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Họ
lạc lối giữa u sầu mù mịt,
Những người si theo dõi dấu chân yêu
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Những người si theo dõi dấu chân yêu
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu,
là chết ở trong lòng một ít.
Ông Andre Menras
thăm nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, tháng 4/2019. Photo: FB Andre Menras.
Thưa “đồng chí” Menras Hồ Cương Quyết. Mối tình Việt
Pháp thật đậm sâu và oan nghiệt. ân oán nhập nhằng. VN bị CS hóa do phút dây
oan nghiệt của Nguyễn Tất Thành ở Hội nghị Tours của Pháp, nơi có ĐCS rất danh
tiếng. Nhưng Pháp cũng là một “bọn Tư bản-Thực dân” mà nhiều người CSVN
đến nay vẫn còn căm ghét tất cả những gì liên quan (như vẫn còn ghét A. de
Rhodes dù đã có công trong việc hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ). Hồ Chí
Minh thành Cộng sản ở Pháp, nhưng người ta níu lấy “công lao” của HCM cũng chỉ
còn ở cuộc trường kỳ đánh Pháp của ông Hồ. Pháp cũng là nơi cư trú của Phan
Châu Trinh, người kịch liệt phản đối con đường mượn sức mạnh nước ngoài
để giành độc lập và cứu nước, con đường mà về sau chính Nguyễn Tất Thành chủ
trương. Pháp là nơi đã làm phát sinh hai tư tưởng đối lập Phan Châu Trinh và
Nguyễn Tất Thành.
Và người CS Việt Nam gốc Pháp Menras Hồ Cương Quyết
cũng là hiện thân của mối tình sâu đậm và oan nghiệt đó. Những người dân chủ
chúng tôi rất quý mến ông, một người Tây quá yêu nước Ta của
chúng tôi, nên mới nói đùa với nhau rằng:
“Đồng chí” Hồ Cương Quyết ơi! Trong cuộc đấu
tranh để sửa những lỗi lầm CS, phải đương đầu với một đội ngũ mà “trình độ Xây
dựng Đảng” đều ở cấp Tiến sĩ trở lên, thà mất
nước còn hơn mất đảng (chư hầu), thì ông thua là phải, thua mà vui vì biết vì
sao mình thua, đồng chí ạ!
Tuy phải “Partir” nhưng “se
réveiller un peu”! Vỡ mộng và vỡ lẽ ra rằng Chủ nghĩa CS chỉ có thể đập bỏ
chứ không thể sửa chữa, người CS cấp cao nhất ở một nước CS mạnh
nhất đã rút ra kết luận ấy trước chúng ta lâu rồi.
Chống lại chuyên chính giáo điều của ĐCS để chủ
nghĩa CS trở nên nhân ái, dân chủ tự do thì bao nhiêu đồng chí “CS nhưng mà tốt”
đã không được “mourir un peu” đâu, mà đã chết toàn phần (mourir
cent pour cent) và chết ngay tút-suýt (mourir tout
de suite) đấy thôi. Với người đã hết tuổi yêu đương si mê bồng bột, mà chỉ Chết
một chút trong tâm hồn để đổi lấy cả Chân lý thời đại là sướng quá
rồi. Nào ta nâng ly, có chai rượu vang Bordeaux superieur chính hiệu đây!
H.S.P. (16/12/2019)
No comments:
Post a Comment