Bùi
Trinh -
TBKTSG
Thứ Ba, 17/12/2019, 10:17
Nguồn
lực của nền kinh tế Việt Nam không dư dả gì, dân số thì đông, nhưng năng suất
lao động lại gần như kém nhất khu vực, vốn thì cơ bản là vốn vay nhưng sử dụng
không hiệu quả.
Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 39-NQ/TƯ ngày
15-1-2019 về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn
lực của nền kinh tế. Nguồn lực của nền kinh tế nói chung bao gồm nguồn lực con
người, tài chính, tài nguyên đất đai và nguồn lực về chính sách.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng
58% dân số, khoảng trên 55 triệu lao động, trong đó tính đến năm 2018 lao động
đã qua đào tạo chiếm 24%. Như vậy có thể thấy nguồn nhân lực là dồi dào. Tuy
nhiên, theo Sách trắng về doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê, số lao động trong
khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 26% (khoảng 14 triệu lao động), trong đó khu
vực doanh nghiệp tư nhân khoảng 61%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI) khoảng 31% và doanh nghiệp nhà nước 8%.
Năng suất lao động của Việt Nam tính theo sức mua
tương đương là thấp thứ nhì Đông Nam Á, sau Lào và chỉ hơn Campuchia. Tăng trưởng
về năng suất lao động bình quân giai đoạn 2010-2018, tính theo sức mua tương
đương, khoảng 4,8%/năm, trong khi tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn
này là 6,2%.
Về hiệu quả sản xuất, tính toán từ số liệu trong
Sách trắng cho thấy giá trị tăng thêm theo giá cơ bản chỉ chiếm 11% trong doanh
thu thuần năm 2017, tỷ lệ chi phí trung gian trong doanh thu thuần là khoảng
89% (nếu tính theo giá trị sản xuất còn thấp nữa, vì giá trị sản xuất bằng
doanh thu thuần cộng chênh lệch sản phẩm tồn kho và dở dang cuối kỳ trừ đầu kỳ,
theo Niên giám Thống kê thì tỷ lệ này khá lớn). Tỷ lệ này cho thấy hiệu quả sản
xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp là rất thấp.
Từ số liệu trong Sách trắng có thể thấy trong ba loại
hình doanh nghiệp (nhà nước, ngoài nhà nước và FDI) chỉ có doanh nghiệp FDI sử
dụng đồng vốn và sản xuất kinh doanh hiệu quả (tỷ lệ giá trị tăng thêm so với
doanh thu thuần khoảng 15%). Thực ra khu vực này có thể còn hiệu quả hơn nữa nếu
khai báo lợi nhuận đúng với thực tế.
Trong số doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh
doanh, số doanh nghiệp có lãi chiếm khá thấp, nên về bản chất số doanh nghiệp
có đóng góp vào GDP là không cao.
Theo tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp, giá
trị tăng thêm theo giá cơ bản chỉ chiếm trong GDP năm 2016 khoảng 44%, năm 2017
khoảng 46%. Phần 56% và 54% còn lại thuộc về các hoạt động văn hóa, y tế, giáo
dục, các hoạt động từ tiền ngân sách như quản lý nhà nước và khu vực kinh doanh
của hộ gia đình.
Nguồn lực về vốn, số liệu của Tổng cục Thống kê cho
thấy cả nền kinh tế có 1 đồng vốn chủ sở hữu thì có tới 2,5 đồng nợ phải trả. Nếu
tính riêng khu vực trong nước, bao gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư
nhân, cứ có 1 đồng vốn chủ sở hữu thì có 2,8 đồng là nợ phải trả; riêng khu vực
doanh nghiệp nhà nước, có 1 đồng vốn chủ sở hữu thì có đến 4,2 đồng là nợ phải
trả; riêng khu vực FDI thì có 1 đồng vốn chủ sở hữu chỉ có 1,6 đồng là nợ phải
trả.
Trong khi đó, việc sử dụng vốn của khu vực trong nước,
đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, không hiệu quả; chỉ số quay vòng vốn của khu
vực nhà nước là cực thấp (0,43), trong khi chỉ số quay vòng vốn của khu vực FDI
là rất tốt (1,1).
Tài nguyên và đất đai không phải do con người làm
ra, tài nguyên có hạn và đất đai cũng vậy. Không thể bán mãi đất đai và khai
thác mãi tài nguyên được.
Như vậy có thể thấy nguồn lực của nền kinh tế Việt
Nam không dư dả gì, dân số thì đông, nhưng năng suất lao động lại gần như kém
nhất khu vực, vốn thì cơ bản là vốn vay nhưng sử dụng không hiệu quả. Theo ý kiến
cá nhân, cần bỏ tư duy thành tích ở mọi lĩnh vực và nguồn lực chính sách cần được
đưa vào đúng chỗ để phát huy tối đa nguồn lực ít ỏi.
Với nguồn lực về vốn, cần phân biệt nguồn lực về vốn
cho tăng trưởng GDP và nguồn lực của nền kinh tế. Theo Hệ thống các tài khoản
quốc gia (System of National Accounts - SNA) của Liên hiệp quốc thì nguồn lực
cơ bản để đầu tư là tiết kiệm (saving) của nền kinh tế, tiết kiệm công, chuyển
nhượng vốn thuần, nếu không đủ phải đi vay để đầu tư(1).
Trong một số trường hợp như đào bới, xới lộn đường
sá vào mỗi dịp cuối năm (từ hàng chục năm nay nhằm mục đích giải ngân trong
năm), xây tượng đài, cổng chào, đầu tư xây dựng cơ bản bị đội vốn... và phụ
thuộc vào FDI đều làm tăng GDP (theo nguyên tắc tính GDP) nhưng lại làm giảm
khả năng tiết kiệm của nền kinh tế khiến tăng trưởng GDP có khi lại làm nguồn
lực của nền kinh tế teo đi(2).
(1)
Đầu tư = tiết kiệm + chuyển nhượng vốn thuần +đi vay/cho vay
(2)
Về phía nguồn tiết kiệm = Thu nhập Quốc gia khả dụng (NDI) – tiêu dùng cuối
cùng; NDI = thu nhập Quốc gia (GNI) + chuyển nhượng (kiều hối) thuần; GNI =
GDP + thu từ sở hữu – chi trả sở hữu (FDI chuyển tiền về nước chẳng hạn)
|
No comments:
Post a Comment