[Khi Đỗ Hữu Ca bị bắt, tôi không nghĩ tới
"luật nhân quả" mà nghĩ tới Luật Đất đai. Chính chính sách đất đai đã
trao quyền bắt bớ những người tử tế như anh Đoàn Văn Vươn cho những kẻ "tội
phạm" như Ca. Xin post lại bài về Luật Đất đai tôi viết 11 năm trước vài
ngày sau khi anh Đoàn Văn Vươn bị bắt. Tôi sẽ viết về sửa Luật Đất đai một cách
thời sự hơn trong những ngày tới đây. Bài dài, xin chỉ những ai quan tâm hẵng đọc
kỹ]
Khi lực lượng cưỡng chế huyện Tiên Lãng đến
khu đầm, anh Vươn cho nổ trái mìn tự tạo cài dưới một bình gas. Bình gas không
nổ. Nhưng, trái mìn tự tạo vẫn gây tiếng vang như một quả bom, “quả bom Đoàn
Văn Vươn”. Vụ nổ không chỉ gây rúng động nhân tâm mà còn giúp nhìn thấy căn
nguyên các xung đột về đất đai. Quyền sở hữu nói là của “toàn dân”, trên thực tế,
rất dễ rơi vào tay đám “cường hào mới”.
Sự Tùy Tiện Của Nhà Nước Huyện
Quyết định giao bổ sung 19,5 ha đất nuôi trồng
thủy sản cho ông Đoàn Văn Vươn, ký ngày 9-4-1997, ghi thời hạn sử dụng là 14
năm tính từ ngày 14-10-1993. Theo báo Thanh Niên, ở thời điểm ấy, chính quyền
huyện Tiên Lãng đã quy định thời hạn giao đất cho nhiều cá nhân, hộ gia đình rất
tùy tiện: có người được giao 4 năm; có người 10 năm... Tuy thời điểm này chưa
có các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thi hành, nhưng Luật Đất đai năm 1993
đã nói rõ thời hạn giao đất nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình và cá nhân là
20 năm.
Theo Nghị định ngày 28-08-1999, nếu chính quyền
Tiên Lãng không tùy tiện thì gia đình ông Vươn có quyền sử dụng phần đất này
cho đến ngày 9-4-2017, tính từ ngày ông được huyện ký giao; tối thiểu cũng phải
đến ngày 15-10-2013, nếu huyện “ăn gian” tính theo ngày Luật Đất đai có hiệu lực.
Vấn đề là, cho dù đất được giao của gia đình ông Vươn hết hạn thì có phải là
đương nhiên bị thu hồi để giao cho người khác như cách mà Tiên Lãng đã làm. Luật
Đất đai 2003 quy định hạn điền cho loại đất nuôi trồng thủy sản là 3 hecta và với
phần đất vượt hạn mức của ông Vươn có thể áp dụng Điều 35 để cho ông tiếp tục
thuê như quy định đối với đất đai nông nghiệp.
Sở Hữu Toàn Dân
Tuy dịch từ Hiến pháp 1936 của Liên xô, Hiến
pháp 1959 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai”. Cho
dù, từ thập niên 1960s ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970s ở miền Nam, ruộng
đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ
chính thức bị coi là thuộc “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980.
Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc: “Trong
bản dự thảo Hiến pháp 1980 do Chủ tịch Trường Chinh trình Bộ Chính trị vẫn đề
nghị duy trì đa hình thức sở hữu, trên cơ sở khuyến khích 5 thành phần kinh tế.
Theo tôi biết thì Bộ Nông nghiệp và Ban Nông nghiệp Trung ương cũng không đồng
ý quốc hữu hóa”. Nhưng, ngày 10-9-1980, trong một bài nói chuyện trước Ban chấp
hành Trung ương có tựa đề, “Hiến pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa”, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Nhân đây, tôi nhấn mạnh một điểm rất
quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu
toàn dân. Đề ra như vậy hoàn toàn đúng với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Ông Nguyễn Đình Lộc, thành viên Ban thư ký của Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp 1980,
thừa nhận: “Khi đó, uy tín Lê Duẩn bao trùm. Mặt khác, nhiều người cũng không
hình dung được bản chất của sở hữu toàn dân là quốc hữu hóa”.
Tuy chấp nhận quốc hữu hóa đất đai nhưng theo
ông Tôn Gia Huyên, lúc bấy giờ là Vụ phó vụ Quản lý Đất đai, ông Trường Chinh
chủ trương giữ nguyên hiện trạng chứ không tịch thu ruộng đất như điều mà Lenin
đã làm với kulax ở Nga sau năm 1917. Ông Trường Chinh yêu cầu ghi vào Điều 20 của
Hiến pháp 1980: “Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử
dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật”.
Khi Hiến pháp 1992 bắt đầu được soạn thảo,
theo ông Phan Văn Khải: “Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tôi muốn sửa Hiến pháp theo
hướng, trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân nhưng không thành công, chúng
tôi đành phải tìm ra khái niệm, trao 5 quyền cho người sử dụng đất”. Trong Đại
hội Đảng lần thứ VII, vòng I, nhiều nhà lãnh đạo địa phương đã lên tiếng ủng hộ
“đa sở hữu hóa đất đai”. Nhưng, ở cấp cao, theo Trưởng ban Biên tập Hiến pháp
1992, ông Nguyễn Đình Lộc: “Không ai có đủ dũng cảm đứng lên đòi bỏ sở hữu toàn
dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm, đụng đến chủ nghĩa xã hội. Khi chuẩn bị bài
phát biểu về Hiến pháp cho Tổng Bí thư Đỗ Mười, tôi có trình bày, nhưng ông Đỗ
Mười nghiêng về sở hữu toàn dân. Ông tin vào điều ông Lê Duẩn nói, sở hữu toàn
dân là quan hệ sản xuất tiên tiến. Ông Đỗ Mười tin, trước sau gì ta cũng tới đó
nên cứ để vậy”.
Các Nhà Làm Luật
Luật Đất đai 1993 đã trao cho người dân 5 quyền:
sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê quyền sử dụng đất. Nhưng,
so với Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 1993 có một điểm lùi. Hiến pháp ghi: “Nhà
nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Trong khi Luật
chỉ giao đất cho cá nhân và chỉ giao có thời hạn. Ông Tôn Gia Huyên giải thích:
“Thời hạn giao đất thực chất chỉ là ý chí chính trị, là sợi chỉ cuối cùng để
phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước”. Là ranh giới để trấn an những
người vẫn còn tin, Việt Nam tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng, cái ranh giới tưởng có giá trị trấn an ấy
đã lại rất mù mờ, mù mờ ngay trong đầu chính các nhà lập pháp. Tháng 7-1993,
sau bốn buổi thảo luận trên Hội trường về Luật Đất đai, các đại biểu miền Nam đề
nghị “giao đất lâu dài” như Hiến pháp 1992, trong khi các đại biểu miền Bắc và
miền Trung lại tán thành giao đất có thời hạn; thậm chí có đại biểu còn đòi rút
ngắn thời hạn giao đất xuống còn từ 10-15 năm. Trong tính toán của nhiều người,
giao đất có thời hạn nghĩa là sau đó Nhà nước có thể lấy lại để giao cho người
khác. Đại biểu Đặng Quốc Tiến, Bắc Thái, nói: “Đất ít, người đông, giao có thời
hạn thì sẽ bảo đảm cho công tác điều chỉnh đất đai khi có biến động nhân khẩu”.
Ông Nguyễn Bá Thanh, khi ấy là Chủ tịch Thành phố Đà Nẵng, đã rất hăng: “Đi
nghĩa vụ quân sự 2 năm thì kêu dài, giao đất 20 năm thì bảo ngắn”.
Khi Luật Đất đại 1993 được đưa ra sửa đổi,
Chính phủ đề nghị nâng thời hạn giao đất nông nghiệp từ 20 năm lên 50 năm.
Trong hai ngày 14 và 16-11-1998, nhiều đại biểu cũng đã phản ứng, thậm chí còn
có phần gay gắt. Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Đại Thắng, Đại Lộc (Quảng
Nam) ông Trần Văn Mai nói: “Số nông dân chưa có đất đang trông chờ cho hết thời
điểm 20 năm, bây giờ đã được 5 năm, còn 15 năm nữa họ sẽ được chia đất. Nếu bây
giờ ta tăng thời hạn lên 50 năm sẽ là một sự hụt hẫng lớn của nhân dân với Đảng”.
Theo cách hiểu của ông Trần Văn Mai: “Hoặc hết hạn 20 năm, hoặc người sử dụng đất
chết, chúng ta sẽ thu hồi cấp lại cho những nhân khẩu phát sinh”. Nhưng, Bí thư
Tỉnh ủy Quảng Trị, ông Nguyễn Đức Hoan đã phát biểu: “Đừng lo cho 20 năm sau
không có đất để phân phối lại. Bây giờ ở ta 80% dân số làm nông nghiệp. Không lẽ
20 năm sau cũng 80%?”. Chủ tịch Hội nông dân tỉnh Đồng Tháp ông Trương Minh
Thái cho rằng: “Đừng nghĩ chúng ta chỉ có thể điều phối ruộng đất ở nông thôn bằng
cách thu hồi rồi chia lại. Chúng ta đã giao cho người dân năm quyền, họ có thể
để thừa kế, hoặc sang nhượng cho người chưa có đất”.
Đất Dân Quyền Quan
Năm quyền của người sử dụng đất sau đó được
“pháp điển hóa” trong Bộ Luật Dân sự 1995 như các quyền dân sự. Quyền sở hữu,
tuy “trá hình” này, vẫn là cơ sở pháp lý để hình thành thị trường địa ốc. Và
trong giai đoạn đầu, nhờ tư vấn của World Bank, thị trường đã được điều hành bằng
công cụ thuế. Cho dù do thuế suất quá cao, Luật Thuế Chuyển quyền sử dụng đất,
ngay lúc ấy, đã khiến nhà đất đóng băng nhưng sử dụng công cụ thuế chính là thừa
nhận giá trị các giao dịch dân sự liên quan tới đất đai. Tuy nhiên, chính quyền
các cấp có vẻ như không mấy mặn mà với vai trò đứng ngoài. Các giao dịch, đặc
biệt là mua bán đất đai đã bị hành chánh hóa: Nhà nước thu hồi đất của người
bán rồi giao đất cho người mua. Thay vì thu thuế chuyển quyền, người mua phải
đóng tiền sử dụng đất, đặt người có đất trong tình thế phải trả tiền hai lần.
Đỉnh cao của sai lầm về chính sách là Pháp lệnh
14-10-1994 và Nghị định 18, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đó. Theo Nghị định 18,
các tổ chức không còn được giao đất có đủ các quyền như Hiến pháp 1992. Những
doanh nhân tiên phong như Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn, Trần Quang Vinh… đã
vay hàng ngàn tỷ đồng để mua đất, sau Nghị định 18 phải chuyển những lô đất ấy
thnh đất thuê và chỉ được thế chấp ngân hàng theo giá trị số tiền thuê đã trả
cho nhà nước. Khi bị bắt, cũng nhân danh “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, Hội đồng
thẩm định do Nhà nước lập ra đã tính, có những mét vuông đất, giá không bằng
que kem. Đất biệt thự đường Trần Phú, Vũng Tàu, mà chỉ được Tòa công nhận giá
ba-trăm-đồng/m2. Khoản chênh lệch giữa giá thực mua và giá của Tòa được coi là
thất thoát để buộc tội các doanh nhân này lừa đảo.
Trong tù, có lúc Minh Phụng nói với Luật sư
Nguyễn Minh Tâm: “Xin luật sư hãy nhìn vào mắt em để xem em có phải là người lừa
đảo?”. Ngày 12-7-1999, khi nghe Luật sư Tâm nhắc lại câu này Minh Phụng đã bật
khóc trước Tòa. Cũng đầu tư vào đất đai cùng một phương thức tuy khác quy mô,
nhưng, thái độ của Nhà nước với giá đất đã biến ông Lê Văn Kiểm, Huy Hoàng,
thành anh hùng và tử hình ông Tăng Minh Phụng.
Danh Chính Ngôn Thuận
Đầu tháng 12-2011, Chính quyền Đà Nẵng nơi ông
Nguyễn Bá Thanh là Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân đã đề nghị cho tư
nhân sở hữu đất đai. Sau 20 năm lãnh đạo một địa phương, có lẽ ông Nguyễn Bá
Thanh nhìn thấy, quyền sở hữu trá hình đã đặt đất đai của người dân vào tay
chính quyền cấp huyện với quá nhiều rủi ro. Điều 38, Luật Đất đai 2003, nói:
Nhà nước chỉ thu hồi đất khi “cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế”
(khoản 7). Nhưng, tại khoản 10 cũng của Điều 38, Luật lại mở ra khả năng: Nhà
nước thu hồi những phần đất “không được gia hạn khi hết thời hạn”. Chính quyền
cấp huyện được Luật giao quyền giao đất và thu hồi đất của cá nhân và hộ gia
đình. Nếu chính quyền Tiên Lãng áp dụng điều 67, tiếp tục giao đất cho ông
Vươn, thì đã không có gì xảy ra, nhưng họ đã đẩy ông vào khoản 10, Điều 38: Thu
hồi đất vì “không được gia hạn” khi thời hạn giao đất của ông đã hết.
Sau “trái bom Đoàn Văn Vươn”, chúng ta biết,
khu đất đầm mà anh có không phải là đất được nhà nước giao mà là đất do gia
đình anh phải lấn biển, khai hoang. Suốt 5 năm “trầm mình dưới nước từ mờ sáng
tới tận tối khuya”, biết bao lần bị bão biển cuốn phăng để đắp được một bờ kè
dài hai cây số, tạo nên bãi bồi màu mỡ và một khu đầm nuôi tôm cá rộng gần 40
hecta. Cũng nơi đây, anh Vươn mất một đứa con gái 8 tuổi vì khi cha mẹ mải làm
con gái của anh đã rơi xuống cống. Đừng nói chuyện thu hồi, lẽ ra chính quyền
Tiên Lãng phải xấu hổ khi ký quyết định giao cho anh Vươn phần đất của chính
anh, phần đất mà anh Vươn đã phải gắn bó suốt 20 năm, đã đổ cả mồ hôi và máu.
Nếu như, quyền sở hữu về đất đai của người dân
được công nhận, thì cách khai hoang, lấn biển của gia đình anh Vươn phải được
coi như một hình thức thủ đắc ruộng đất mà từ xa xưa cha ông ta đã áp dụng cho
người dân để ngày nay Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau. Nếu như
quyền sở hữu về đất đai của người dân được công nhận, Chính quyền không thể
hành chính hóa các giao dịch dân sự liên quan đến đất đai. Các đại gia không thể
thậm thụt với đám cường hào thu hồi những mảnh đất của dân mà họ mua không được.
Nhưng đó là câu chuyện có thể được thảo luận
trong quá trình sửa đổi Hiến pháp. Người dân đang dõi theo thái độ của Chính phủ,
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước trường hợp Đoàn Văn Vươn.
Theo cách giải thích của Giám đốc Công an Hải
Phòng Đỗ Hữu Ca thì đất ông Vươn nằm trong vùng quy hoạch xây dựng một sân bay
quốc tế. Nếu thu hồi bây giờ hoặc chuyển thành thuê thì mai này nhà nước không
phải bồi thường cho ông Vươn. Đỗ Hữu Ca nói: “Với công trình đặc biệt quan trọng
như thế thì đền bù sẽ rất lớn. Ông Vươn cố giữ lại như thế để lấy đền bù khi dự
án được triển khai”. Có thể Đỗ Hữu Ca là một công chức mẫn cán chứ không phải
là “cụ Bá”. Nhưng, lo quyền lợi của nhà nước sao không tính quyền lợi của dân,
không tính máu và mồ hôi 20 năm của gia đình anh Vươn. Chắc Đỗ Hữu Ca không
nghĩ, anh em, bà con ông và chỉ vài năm nữa chính ông cũng là dân.
Đỗ Hữu Ca có lẽ không nhớ chuyện anh rể của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng, sáng 17-4-2009, bị “áp giải ra khỏi hiện trường” khi
chính quyền huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tiến hành cưỡng chế thu hồi hơn 185
hecta cao su của ông để làm khu công nghiệp. Ông đã không đồng ý cho giải tỏa,
mặc dù, 185 hecta cao su này ông có được nhàn hạ hơn so với công sức khai
hoang, lấn sóng của anh Vươn và mức đền bù thì cao hơn gấp 20 lần giá vốn. Nhắc
lại câu chuyện này để thấy, bất luận là ai, khi phải đối diện với tấc đất của
mình thì mới thấy của đau, con xót.
Dù sao thì hành động chống người thi hành công
vụ của anh Đoàn Văn Vươn cũng phải được đưa ra xét xử. Nhưng, thông điệp mà các
địa phương chờ đợi không phải là những năm tù cho anh mà là thái độ của nhà nước
với chính quyền Tiên Lãng. Từ năm 2013, ruộng đất của nông dân bắt đầu lần lượt
hết hạn giao đất. Nếu như quyết định của Chủ tịch Tiên Lãng Lê Văn Hiền không bị
coi là sai, hơn 500 chủ tịch huyện trên cả nước có thể noi gương thu hồi đất
đáo hạn của nông dân để… giao, thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Đừng chậm trễ
và đừng để “quả bom Đoàn Văn Vươn” lại nổ.
PS: Sử dụng hình Đỗ Hữu Ca, bị report, nhà X chu đáo quá.
.
No comments:
Post a Comment