TT Ngô Đình Diệm và 5 năm
vàng son 1955-1960
Tiến
Sĩ Nguyễn Tiến Hưng
cựu tổng trưởng Kế
Hoạch VNCH
October 30, 2021
https://www.nguoi-viet.com/dien-dan/tt-ngo-dinh-diem-va-5-nam-vang-son-1955-1960/
Từ trên cao nguyên Tây Tạng con sông Cửu Long
cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía Nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan,
Cambodia, rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông.
May cho miền Nam Việt Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Cambodia hút đi một phần lớn
lượng nước từ thượng nguồn, cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền hòa chảy
vào. Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm tám nhánh. Nhưng con số “9” được
coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài
khoảng 10 dặm) để cộng lại thành ra chín nhánh, gọi là Cửu Long Giang. Dòng
sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ màu mỡ, phì
nhiêu, trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi
năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra miền Bắc và xuất cảng.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/10/DD-Ngo-Dinh-Diem-Vang-Son-1068x804.jpg
Tổng Thống Ngô Đình
Diệm (phải) hội đàm với Tổng Thống Lý Thừa Vãn ngày 14 Tháng Mười Một, 1958 khi
nhà lãnh đạo Nam Hàn thăm Việt Nam. (Hình minh họa: Keystone/Getty Images)
Khởi đầu gian khó
Nhưng trong 10 năm chiến tranh loạn lạc, trên
một phần ba đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại
lan tràn. Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống
bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của miền Nam
trong 10 năm trước 1955 bị giảm đi đáng kể. Ngoài ra, các phương tiện giao
thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng,
rượu bia, sợi bông cũng đều bị hư hại. Cho nên vào năm 1955, khi “Một Quốc Gia
Vừa Ra Đời,” như báo chí Mỹ tuyên dương, thì quốc gia ấy phải đối diện với bao
nhiêu khó khăn khôn lường.
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp. Kỹ
sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết,
để lại một lỗ hổng lớn cho cả nền kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955
tới mùa Thu 1960, miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng
minh Hoa Kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật, cho nên thu lượm được nhiều
kết quả có thể nói là vượt bực. Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc
còn nhớ lại cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần
xanh, các nữ sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến
trường.
Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giàu
có thì chưa thấy nhưng hầu hết đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy có
nhiều bất mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì
chúng ta phải công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của VNCH.
Định cư gần 1 triệu
người di cư từ miền Bắc
Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định
cư tới gần 1 triệu người – trong đó có gia đình tác giả, tương đương 7% dân số
miền Bắc di cư vào Nam. Đoàn người này hoàn toàn “tay trắng.” Chúng tôi gọi là
đoàn người “bốn không:” Không nhà cửa, không đất đai, không tiền bạc, và không
có ngành nghề chuyên môn ngoài nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại
được công ăn việc làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho
con em để đáp ứng nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y
tá, thầy dạy cho con em.
Sau này khi nói về thành công của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, Tổng Thống John F. Kennedy của Mỹ viết cho ông nhân ngày Quốc
Khánh 26 Tháng Mười, 1961 như sau:
“Kính thưa tổng thống,
Thành tích mà ngài đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an
ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ miền Bắc nổi bật như một
trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất và được điều hành tốt nhất trong thời
kỳ hiện đại.”
Tái thiết và phát
triển nông nghiệp
Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển
phải là nông nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là
vựa lúa của cả nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong 10 năm ly loạn.
Thời tiền chiến, sản xuất lên tới 4.2 triệu tấn
(1939). Tới 1954 chỉ còn 2.5 triệu tấn. Năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn,
năm 1954 còn 520,000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số 7 triệu mẫu
đất trồng trọt có tới 2.5 triệu mẫu (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là
mạch máu của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào
canh tác. Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí
nhiều tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh rạch,
lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất cho
người nông dân.
Cải cách điền địa:
Khó khăn và giải pháp thành công
Người khôn của khó. Lo lắng chính của người
dân là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần
nước thì là vàng. “Đất nước tôi:” Đất và nước. Chỉ có người Việt Nam chúng ta mới
dùng hai chữ “đất” và “nước” để chỉ quê hương, tổ quốc mình, vì tấc đất là tấc
vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào
năm 1955 với biện pháp giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp
cho tá điền có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.
Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của
các chính phủ Châu Á, nhưng ở miền Nam Việt Nam thì nó là khó khăn nhất. Làm
sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi đất canh tác
lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những người nắm thực quyền
tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự tập
trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là cao nhất ở vùng Đông Nam Á: Chỉ
có 2.5% điền chủ sở hữu tới một nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ
có hơn 50 mẫu đất. Khi chúng tôi vừa mới di cư từ Bắc vào Nam thì đã nghe câu
“nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa.” Đây là tứ đại gia, tuy họ ở Sài Gòn,
Chợ Lớn, nhưng là những ông đại diền chủ của vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long.
Trước tình huống ấy, Tổng Thống Diệm phải đối
mặt với một khủng hoảng xã hội tiềm ẩn về chương trình cải cách điền địa. Tuy vậy,
ông vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh tế, bắt đầu ngay từ
1955, bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi chồng
cày vợ cấy, điền chủ phải ký hợp đồng với tá điền về những điều kiện thuê đất:
Tiền thuê đất, thời hạn thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất
mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong năm năm là khả
quan: Sản xuất cây lương thực tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền
chiến. Năm 1959, sản xuất gạo lên 5.3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế
miền Nam cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng, với tổng xuất cảng là 340,000 tấn,
năm 1960 cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.
Phát triển công kỹ
nghệ và áp đặt quy chế “Quốc tịch Việt”
Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu
như không được phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập
trung vào kỹ nghệ và khai thác hầm mỏ, miền Nam tập trung vào nông nghiệp và một
số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt, thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.
Bởi vậy, từ 1955, miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản. Chuyên
viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài
nguyên với ba dự án chính: Mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và mỏ phốt phát
tại Hoàng Sa – Trường Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những
quần đảo này.
Một chuyện ít người
biết là việc đổi quốc tịch
Nhiều người lên án hành động của Tổng Thống Diệm
là độc tài khi ông đưa ra quy định vào mùa Hè 1955, căn bản là nhắm vào các
thương gia người Hoa (đa số sinh sống ở Chợ Lớn): Nếu muốn làm ăn ở Việt Nam
thì phải đổi sang quốc tịch Việt Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới biết lý do thầm
kín của biện pháp này. Đó là vì thời gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở miền Nam căn bản
là thuộc quyền sở hữu của người Pháp. Cho nên khi Tổng Thống Diệm quyết tâm đẩy
người Pháp ra khỏi miền Nam thì ông tiên liệu trước và mở đường để người Hoa nhập
quốc tịch Việt Nam, với mục đích là để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể
mua lại những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp. Há miệng mắc quai: Khi bị chỉ trích
là áp đặt, độc tài thì ông đành phải cam chịu trong yên lặng. Mặt khác, biện
pháp này còn có cái lợi là đưa cộng đồng người Hoa vào khuôn khổ luật pháp của
Việt Nam để có thể kiểm soát những kinh doanh có chiều hướng làm lũng đoạn nền
kinh tế. Người Hoa nắm giữ tất cả các hệ thống phân phối trên thị trường, cho
nên dễ đầu cơ tích trữ.
Một kích thích kinh tế nổi bật khác là chính
sách cởi mở, ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: Bảo đảm về chiến tranh,
cam kết không tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về
thuế má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.
Hạ tầng cơ sở
Tái thiết mạng lưới giao thông bị hư hại trong
thời chiến và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh
tế và xã hội. Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến
hàng không đã được cải thiện và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận chuyển hiện đại
bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên tỉnh lộ, hương lộ, đường
thủy, và đường hàng không.
1-Đường bộ: Tới
đầu thập niên 1960, trong khoảng 9,000 dặm đường thì đã có hơn 2,000 dặm là bê
tông nhựa, 3,000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4,000 dặm là đường hương lộ.
2-Đường sắt: Năm
1955 giao thông đường sắt cũng bắt đầu được sửa chữa và canh tân. Tới 1959 toàn
thể hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy từ Sài Gòn đến
Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải (nhiều khúc bị cắt đứt
trong 12 năm chiến tranh). Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ
Phan Rang lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về
phía Đông Bắc, đi từ Sài Gòn tới Lộc Ninh.
3-Hàng không: Hãng
hàng không quốc gia Việt Nam – Air Vietnam – được thành lập lúc đầu để bay
trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi trường được sửa chữa lại và
xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban Mê
Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, và Phú Quốc. Ngoài ra, còn những phi đạo nho
nhỏ do các đồn điền Pháp xây dựng. Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới
Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok, Vientianne, và Savannakhet. Đường bay quốc tế
phần lớn được các hãng Air France, Pan American, World Airways, British
Airways, Royal Dutch, Cathay Pacific, và Thai Airways đảm trách.
Ngân hàng và tiền
tệ
Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một
hệ thống ngân hàng thương mại để thay thế cho Banque de L’Indochine và các ngân
hàng thương mại Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn lao của thời Đệ Nhất Cộng
Hòa, nhưng nó cũng là nguồn gốc của sự căm phẫn của giới tư bản Pháp, cho nên họ
chống đối ông Diệm kịch liệt.
Ngay từ Tháng Giêng, 1955, Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam được thành lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp
vụ của một ngân hàng trung ương tân tiến.
Giáo dục và đào tạo
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng
nhất trong việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, miền Nam
Việt Nam phát triển giáo dục rất nhanh.
1-Tiểu học: Năm
1960, miền Nam có tới 4,266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục.
Tổng số học trò lên tới gần 1,200,000.
2-Trung học: Các
trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường. Thí dụ như trường Gia
Long, số học sinh tăng từ 1,200 lên tới 5,000.
3-Đại học: Trước năm 1954, miền
Nam không có đại học. Muốn học cử nhân phải ra Hà Nội. Năm 1955 chính thức
thành lập Đại Học Sài Gòn, rồi tới Đại Học Huế, Đại Học Đà Lạt. Tới năm 1962 số
sinh viên lên tới 12,000.
Xem như vậy, thành quả của “Năm Năm Vàng Son
1955-1960” là thời gian trân quý nhất của VNCH.
Nhân ngày Quốc Khánh 26 Tháng Mười, 1960, Tổng
Thống Dwight Eisenhower của Mỹ viết cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau:
“Kính thưa tổng thống,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng Hòa, nhân dân miền Nam đã
phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc biệt ấn tượng
qua một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1,200,000 trẻ em Việt Nam
đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm
năm trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai
của Việt Nam.”
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng
và phát triển. Nhân dân miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống
trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình.
Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại thêm một bước
tiến. Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian ấy.
Thí dụ, quý vị có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới tận
Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tàu tắm biển hay buổi chiều đến ga xe lửa
gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt. Chỉ trong chốc lát, con tàu bắt đầu phun
khói, còi tàu rít lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời mọc lên thì tàu chạy
ngang bờ biển cát trắng Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc
để trèo dốc lên Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để
mau tới “Café Tùng” hay “Phở Bằng” thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó
có thể diễn tả được.
***
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt
thì chỉ cần có hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng
luôn vui với cuộc sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để
cày sâu cuốc bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm
nhạc miền Nam trong thời gian này. Trời mùa Hè oi ả, nóng nực, nhưng đêm đêm tiếng
hát của ca sĩ Thái Thanh vọng ra từ những chiếc radio transistor nho nhỏ vẽ lên
hình ảnh đồng quê thanh bình, đem lại luồng gió mát làm cho lòng người lắng dịu:
“Mùa màng năm nay, gạo tròn ta xay
Đêm đêm thức giấc lúc gà chưa gáy
Vì đời an lành, nên lúa đa tình
Hứa cho đôi mình kiếp sống thanh bình.”
Và khi thanh bình, con người lại đối xử với
nhau cho hài hòa thì mọi việc – dù là tát cạn Biển Đông – cũng đều có thể ước
mơ, như trong bài “Vợ chồng quê” của nhạc sĩ Phạm Duy:
“Hỡi em tát nước bên ngòi,
Nàng ơi, Biển Đông ta tát cạn,
Nàng nàng ơi, cho đời thuận nhau.”
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội đó
thật là nhỏ nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng đáng kể so với các nước láng
giềng thưở ấy, như ngay cả Nam Hàn, dưới thời Tổng Thống Lý Thừa Vãn. Miền Nam
Việt Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960
cho mô hình phát triển sau này của chính Nam Hàn dưới thời Tổng Thống Phác
Chính Hy, như chúng tôi đã đề cập trong cuốn sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào”
(Chương 13).
Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa
miền Nam tới chỗ vươn lên – kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-off) để trở
thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của nền Cộng Hòa do Tổng Thống
Ngô Đình Diệm khai phóng thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc
cho rằng đây chính là “một cuộc cách mạng đã bị mất đi” (the lost revolution) của
miền Nam Việt Nam. [đ.d.]
No comments:
Post a Comment