https://www.facebook.com/hungquoc.nguyen.771/posts/3201992963410327
Ở giới lãnh đạo Việt Nam, có một nghịch lý: một
mặt, họ có vẻ chuộng bằng cấp, ai cũng có vẻ muốn có bằng cấp thật cao và tạo
cơ hội cho các cán bộ dưới quyền có bằng cấp thật cao, kể cả bằng giả hoặc bằng
dỏm; nhưng mặt khác, họ lại không che giấu được sự khinh bỉ cố hữu đối với trí
thức.
Nói “cố hữu” vì nó gắn liền với bản chất giai
cấp của đảng Cộng sản. Có lẽ không ai không biết câu ví trí thức với cục phân của
Mao Trạch Đông tại cuộc hội nghị văn nghệ ở Diên An năm 1943. Mấy năm sau, câu
nói ấy được du nhập vào Việt Nam và được giới văn nghệ sĩ, trí thức học tập
ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhà văn Nguyễn Thành Long kể:
“Khi đọc tài liệu Văn nghệ Diên An của Mao Trạch
Đông, tôi còn nhớ nguyên văn một câu gây ấn tượng dai dẳng trong tôi: ‘Trí thức
là cục phân’. Chúng tôi phải tin theo điều này và tự phủ nhận bản thân mình.”
(Phong Lê (chủ biên) (1995), Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học
1945-1854, Hà Nội: nxb Khoa học xã hội, tr. 527)
Nhìn lại lịch sử Việt Nam từ năm 1945, đặc biệt,
từ 1954 về sau, người ta có thể dễ dàng tìm thấy vô số bằng chứng về chính sách
đối xử tàn tệ đối với giới trí thức, kể cả những trí thức được coi là cực kỳ xuất
sắc, là những niềm tự hào hiếm hoi mà dân tộc Việt Nam có được. Thì cứ nhìn lại
cuộc đời của Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), Trần Đức Thảo (1917-1993), Đào Duy
Anh (1904-1988) và Trương Tửu (1913-1999) mà xem. Có thể nói họ là bốn đỉnh cao
trong lãnh vực khoa học xã hội và nhân văn trước cách mạng tháng Tám. Người đầu
tiên nổi tiếng là học giỏi (22 tuổi có hai bằng tiến sĩ ở Pháp) và là luật sư
giỏi; người thứ hai được xem là triết gia duy nhất có tầm vóc quốc tế của Việt
Nam cho đến thời điểm này; người thứ ba, bằng con đường tự học, trở thành một dịch
giả, một sử gia, một nhà từ điển học và văn hoá học lừng lẫy; còn người cuối
cùng là một nhà phê bình và lý thuyết văn học vừa uyên bác vừa tài hoa. Vậy mà,
suốt mấy chục năm, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả đều bị hắt hủi, thậm
chí, dập vùi một cách vô cùng tàn bạo. Họ không những đói, khổ mà còn bị nghi
ngờ và khinh bỉ. Công việc duy nhất mà một vài người trong họ có thể làm được
là dịch thuật. Nhiều khi dịch mà vẫn không được phép ghi tên trên tác phẩm mình
dịch.
Tất cả chỉ được khen ngợi sau khi... chết.
Khi khen ngợi, người ta cũng tảng lờ đi những
năm tháng họ bị ruồng rẫy.
Và người ta cũng tảng lờ đi là, cho đến sau
này, nhiều tài năng khác, hay trí thức nói chung, vẫn tiếp tục bị khinh rẻ.
May, không phải ai cũng tự lừa mình hay lừa
người khác như vậy.
Đã có nhiều người lên tiếng. Trước, lên tiếng ở
những chỗ riêng tư. Sau, dần dần, họ lên tiếng một cách công khai.
Người lên tiếng nhiều và cay đắng nhất có lẽ
là nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh. Ông nói đi nói lại nhiều lần. Một lần,
trong bài viết “Phê bình văn học trong tình hình mới” đăng trên báo Văn Nghệ
(Hà Nội) số ra ngày 29-8-1987, ông viết: “Người ta thích nói một cách chung
chung, nền văn học của ta đã trưởng thành, văn nghệ sĩ của ta là những chiến
sĩ, những anh hùng, nhưng đối với văn nghệ sĩ thì coi như con nít”. Lần
khác, trong một cuộc hội thảo bàn tròn do báo Văn Nghệ tổ chức cũng được tường
thuật trên số báo vừa dẫn, ông lại nói: “Nhà văn cũng bị coi là con nít: sợ
họ hư nên người ta thích bật đèn đỏ, đèn vàng, chứ ít khi bật đèn xanh cho văn
nghệ phát triển.” Lần khác nữa, trong buổi họp mặt giữa Nguyễn Văn Linh,
nguyên Tổng bí thư đảng, với khoảng 100 văn nghệ sĩ Hà Nội, vào tháng 10 năm
1987, Nguyễn Đăng Mạnh phát biểu: “Lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ.”
Sau này trong cuốn Hồi ký được phổ biến rộng
rãi trên internet, Nguyễn Đăng Mạnh lại lặp lại ý kiến ấy khi nói đến sự kiện một
số cán bộ lãnh đạo sử dụng một số cây bút đàn em để đánh phá những văn nghệ sĩ
và học giả mà họ không thích:
“Trình độ văn hoá, trình độ nhận thức thấp tất
đẻ ra lối lãnh đạo văn hoá một cách thô bạo. Chẳng hiểu gì cả mà dám can thiệp
sâu vào chuyên môn [...]. Và họ khinh bỉ trí thức đến thế là cùng: không mời
tôi và bất cứ một nhà nghiên cứu văn học nào đến để tham khảo ý kiến.”
Liên quan đến chuyện khinh bỉ giới trí thức,
những lời kể của Vũ Thư Hiên trong cuốn “Đêm giữa ban ngày” về Đinh Đức Thiện,
em ruột của Lê Đức Thọ, khá thú vị:
“Trong cuộc đời không dài Ðinh Ðức Thiện đã giữ
những chức vụ rất quan trọng - bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim, Trưởng ban xây
dựng Khu gang thép Thái Nguyên, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Tổng cục trưởng
Tổng cục dầu khí, hàm thượng tướng. Ông ít học. Trình độ học vấn không quá bậc
sơ đẳng. Thế nhưng Ðinh Ðức Thiện khinh trí thức lắm. Ông hạ lệnh cho các kỹ sư
điện tính toán thời hạn lắp đặt đường dây cao thế Thái Nguyên - Hà Nội. Họ tính
kỹ rồi báo cáo lên Ðinh Ðức Thiện: không thể dưới hai năm. Ông ta nghe xong liền
nổi khùng: ‘Rặt một lũ ăn hại đái nát! Làm chó gì mà mất những hai năm. Tôi mà
ra lệnh cho công binh làm ấy à, chỉ hai tháng là cùng. Tính với chả toán, tính
như con c... Các anh lúc nào cũng cúi đầu làm theo sách vở của bọn thực dân đế
quốc. Vào rừng chặt cây về mà làm cột, mắc điện vào. Là xong. Trí thức với chả
trí ngủ!’ Người kể lại chuyện này là một kỹ sư tốt nghiệp Cao đẳng kỹ thuật thời
Pháp, hôm ấy được nghe Ðinh Ðức Thiện trực tiếp quát mắng.
[...]
“Có một thời sự thiếu học được coi là niềm tự
hào - người ít học là người có quá khứ trong sạch, không dính với thực dân,
phong kiến. Ðinh Ðức Thiện tự hào về sự thiếu học của mình lắm. Ông vỗ ngực đồm
độp: ‘Xem tao đây này, tao chẳng có cái bằng chó nào hết, thế mà tiến sĩ kỹ sư
sợ tao một phép. Chúng nó ỷ có học, nhưng học gì lũ chúng nó, học vẹt ấy thì
có, rời sách vở ra là chịu chết. Trí thức mà không có thực tế chỉ là cục c...
Chính tao này, tao chỉ đạo kỹ thuật cho chúng nó, chứ ai? Nghe cái bọn quen bơ
thừa sữa cặn ấy chỉ có mà ăn cháo, ăn cháo!’’
Đọc xong câu chuyện ấy, tự dưng tôi nhớ đến
câu chuyện do Huỳnh Thúc Kháng kể trong cuốn “Thi tù tùng thoại”: Khi bị giam
ngoài Côn Đảo, ông và một số người khác - toàn là dân khoa bảng chống Pháp – bị
bắt đi đập đá. Thấy mọi người làm việc vụng về, tên cai ngục, vốn là một đứa vô
học, cầm roi gõ vào đầu từng người hỏi: “Mày làm gì?” Người kia đáp: “Dạ, Cử
nhân.” Hắn quất cho một roi, rồi nói: “Cử nhân nè!” Hỏi người khác: “Mày làm
gì?” Đáp: “Dạ, Tiến sĩ” Hắn quất cho một roi và nói: “Tiến sĩ nè!”
Cứ thế, hết người này đến người khác.
Đau xót, Huỳnh Thúc Kháng làm bài thơ:
Tấn sĩ nhỉ hà vật
Ngôn ngữ thái ngạo mạn
Tặng nhỉ nhứt trường tiên
Sử tri ngã thủ đoạn
Ông tự dịch:
Tiến sĩ là cái gì
Ăn nói rất vô lễ
Cho mày một ngọn roi
Mày biết tay tao nhé!
Đọc, cứ tưởng như chuyện hài hước.
Vậy mà chúng có thực. Có thực, thời Pháp thuộc.
Có thực, thời cách mạng. Và không chừng cũng có thực, cả đến tận bây giờ nữa.
(Trích trong cuốn “Những bài viết về chính trị”,
Lotus Media xuất bản, phát hành trên Amazon.com)
https://www.amazon.com/Nh%E1.../dp/1087918936/ref=sr_1_22...
.
No comments:
Post a Comment