Trương Nhân Tuấn
Jeudi 28 Février
2013
http://nhantuantruong.blogspot.com/2013/02/ve-bai-viet-nhung-bai-hoc-ve-cuoc-chien.html
Bài viết này có một số điểm cần được thảo luận thêm như sau :
Bài viết này có một số điểm cần được thảo luận thêm như sau :
1/ Tác giả cho rằng cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước
Việt-Trung năm 1979 « là một trong hai cuộc chiến tranh đầu tiên giữa hai quốc
gia xã hội chủ nghĩa (cuộc chiến kia là giữa Việt Nam và
Campuchia năm 1978) » và « là một trong những cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhất
trên thế giới »...
Danh từ « cuộc chiến tranh » không
nói rõ nghĩa. « Cuộc chiến tranh » có thể hiểu là « một cuộc chiến – une
bataille » hoặc « sự chiến tranh – la guerre » mà hai sự việc này rất khác
biệt. Xung đột vũ trang Việt-Trung đầu năm 1979 hai bên không có bên nào tuyên
bố « chiến tranh », nhưng khó để mà nói đó không phải là một « cuộc chiến tranh
– une guerre », vì mức độ rộng lớn của trận địa cũng như ảnh hưởng quốc tế về
địa chiến lược của cuộc chiến.
Nói đây là cuộc chiến « đầu tiên »
giữa hai nước XHCN là không đúng. Trước đó hai bên Liên Xô và Trung Quốc, năm
1969, hai nước XHCN, đã xảy ra xung đột vũ trang do tranh chấp biên giới. Xung
đột kéo dài 5 tháng, suýt đưa tới chiến tranh nguyên tử.
Đây cũng không phải là cuộc chiến
ngắn nhất, vì còn có những cuộc chiến ngắn hơn : Chiến tranh giữa Do Thái và
các nước Ả Rập chung quanh, bắt đầu ngày 5 chấm dứt ngày 10-6-1967, vỏn vẹn có
6 ngày.
2/ Tác giả cho rằng trong cuộc chiến này « Việt Nam hoàn
toàn bị bất ngờ », « không chuẩn bị trước ».
Tác giả dẫn tài liệu từ cuốn « Bên thắng cuộc » của Huy Đức để viết : « những
người được phỏng vấn về cuộc tấn công ấy cũng đều cho là Việt Nam hoàn toàn
không chuẩn bị trước »...
Vậy thì lý giải làm sao, chỉ ở mặt
trận Lạng Sơn, phía VN đã đào sẵn hơn 60 cây số chiến hào phòng thủ cùng với
khoảng 2.000 cứ điểm chiến đấu ? Nếu không « chuẩn bị trước », các cơ sở phòng
thủ đó để làm gì ? chống ai, đề phòng ai ?
Diễn biến cuộc chiến, tài liệu từ hai
phía, cho thấy khi quân TQ vượt qua biên giới là tức khắc bị sa lầy, mặc dầu
với quân số đông hơn gấp 5 lần (với chín quân đoàn chủ lực cùng, cùng nhiều sư
đoàn thiết giáp, tổng cộng khoảng 300.000 quân, chưa tính dân công), cùng trên
500 xe tăng và hàng ngàn khẩu pháo yểm trợ. Việc này chỉ có thể giải thích là
phía VN đã được chuẩn bị chu đáo, gài quân sẵn để « tiếp đón » đoàn quân của
TQ. Nói VN « gài bẫy » sẵn để TQ đút đầu vào thì cũng không quá đáng.
Câu hỏi đặt ra là các chiến hào phòng
thủ cùng các cứ điểm chiến đấu này đã được VN xây từ lúc nào ?
Theo tuyên bố của Đặng Tiểu Bình ngày 16-3-1979 :
« ngay lúc chúng ta tăng cưòng viện
trợ cho chúng, có công sự đã xây bẩy năm, có cái đã được ba năm, chỗ nào cũng
thấy công sự, tích trữ rất nhiều vật tư, rất nhiều vật tư là do chúng ta viện
trợ, gạo, đạn, vũ khí, lần này lấy về một loạt, Việt Nam cậy có hiệp ước Xô
Việt mới dám như thế. »
Điều này cho thấy phía VN đã chuẩn bị
chiến tranh với TQ ngay từ lúc TQ còn viện trợ cho VN, trước cuộc chiến 1979 từ
3 đến 7 năm.
Về các chi tiết về lãnh đạo CSVN (Phạm
Văn Đồng, Văn Tiến Dũng) lúc đó đều ở bên Kampuchia, theo các dữ kiện dẫn từ «
Bên thắng cuộc » của Huy Đức. Các dữ kiện này cũng không chứng minh được yếu tố
« bất ngờ » của cuộc chiến. Vai trò của VTD và PVD trong bộ Chính trị lúc đó ra
sao ? hai ông này theo « phe » nào ? Không thấy ai đặt ra. Các dữ liệu mới đây
cho thấy VTD thuộc phe thân TQ. Dĩ nhiên, việc phòng vệ biên giới Việt-Trung sẽ
không thể để VTD kiểm soát rồi ! Điều này lại cho thấy lãnh đạo CSVN lúc đó
(thân LX) đã có những tính toán sâu xa về cuộc chiến. Do đó quyết định « đày »
VTD sang Kampuchia.
Tác giả viết :
« Cuộc tấn công của Trung Quốc năm
1979 cho thấy một yếu kém nghiêm trọng khác của Việt Nam: tình báo... Từ giữa
năm 1978, giới lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu bàn luận về kế hoạch tấn công
Việt Nam: Họ hoàn toàn không biết. Từ cuối năm 1978, Trung Quốc bắt đầu lên kế
hoạch tấn công: Họ cũng không biết. Cũng từ cuối năm 1978 và đầu năm 1979,
Trung Quốc liên tục đàm phán với Mỹ, Nhật và một số nước Đông Nam Á, như Thái
Lan và Malaysia, về việc tấn công Việt Nam: Họ cũng không biết. Tệ nhất là sự
kiện: để điều động trên 300.000 quân với vũ khí và lương thực đến biên giới,
Trung Quốc cần ít nhất là ba tháng, với cả hàng trăm ngàn dân công: Họ cũng
không biết. »
Điều này cũng không đúng.
Tháng 8 năm 1978 TQ bắt đầu tập trung
quân tại biên giới, việc này các vệ tinh và máy nay dọ thám của HK chụp hình
được. Nếu HK làm được không lẽ Liên Xô không làm được ? Vài tuần trước khi
chiến sự xảy ra, phía VN đã tố cáo trước Hội đồng Bảo an LHQ phía Trung Quốc
tập trung quân tại biên giới.
Nếu « tình báo » không « biết trước »
thì làm sao có việc VN tố cáo TQ trước LHQ ?
Như thế VN (và LX) chuẩn bị chiến
tranh với TQ là có thật (và từ khá lâu). Câu hỏi đặt ra (chưa có câu trả lời)
là VN và LX chuẩn bị chiến tranh với TQ là nhằm vào mục đích gì ?
Tác giả viết :
« Việt Nam bị hớ trong việc phòng thủ
biên giới. Họ lại hớ lần nữa trong việc phòng thủ Hà Nội, nơi Trung Quốc không
hề có ý định tấn công. Cả hai lần hớ ấy đều xuất phát từ một nguyên nhân: Thiếu
tin tức. »
Điều này lại càng không đúng. Bởi vì
VN đã chuẩn bị cho tình trạng tệ nhứt, là mất Hà Nội. Bộ đầu não của VN đã bí
mật chuyển về Nha Trang trước đó khá lâu. Tại sao Nha Trang ? vì Nha Trang ở kế
Cam Ranh, quân cảng dành cho hải quân LX sử dụng. Nha Trang, lúc đó là nơi được
phòng thủ chu đáo nhứt VN về cả ba mặt : trên không, trên bộ và mặt biển.
Nếu « tình báo » không tinh nhạy, VN
không chuẩn bị, thì làm sao có quyết định « dời đô » vào Nha Trang ?
Sau khi mất Lạng Sơn, VN đã bày trận
địa sông Thương (xưa gọi là sông Như Nguyệt) để cản bước tiến của quân TQ. Đó
là vùng có địa danh Ải Chi Lăng (mà mỗi lần nhắc lại quân TQ dựng tóc gáy). Dĩ
nhiên bày trận địa này là để không cho quân TQ tiến sâu xuống phía nam (luôn
tiện phòng thủ Hà Nội) chứ việc phòng thủ Hà Nội không phải là mục tiêu chính
(vì thủ đô đã dời về Nha Trang).
3/ Trong bài tác giả cũng có viết « vũ khí VN tối tân hơn
» nhờ vũ khí « tịch thu ở miên Nam ».
Ở điểm này có nhiều điều cần xem xét
lại. Vũ khí « tịch thu từ miền nam » được đưa lên biên giới để phòng thủ là vũ
khí nào và từ bao giờ ?
Nếu chi tiết này có thật, thì tác giả
đã mâu thuẫn. Chi tiết này chứng minh phía VN chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến.
Vì có chuẩn bị nên mới đưa vũ khí tối tân lên biên giới (để tiếp đón quân TQ).
Nếu không, đưa vũ khí « tối tân » lên đây làm chi trong khi đang có những trận
đánh lớn ở Kampuchia ?
Nhưng điều này nhiều phần là sai.
Trong cuộc chiến 54-75, vũ khí của HK sử dụng tại VN cho thấy không hữu hiệu
bằng vũ khí của phía LX cung cấp cho CSVN. Vũ khí của HK, M16, M72, hỏa tiễn
TOW, tăng M48… không có loại nào thích hợp cho chiến tranh du kích hay đánh cận
chiến. Nếu so sánh hai vũ khí tương đương chống chiến xa, M72 và B41. M72 bắn
một phát là bỏ trong khi B41 (và B40) chỉ là một ống phóng xài vĩnh viễn với
những trái đạn khá nhẹ và gọn, nạp nhanh chóng. B40 và B41 còn dùng để tấn công
đồn bót, phá cầu, phá xe cộ... Trong khi các loại súng cá nhân như AK 47 thì
tiện dụng hơn M16. Nói chung, vũ khí miền bắc rất phù hợp cho các cuộc cận
chiến và du kích chiến.
Vì thế, cho rằng CSVN đưa vũ khí tịch
thu được của VNCH đưa lên biên giới phía bắc là không thuyết phục. Mà nếu có,
các vũ khí này cũng không hữu dụng hơn các vũ khí mà phía CSVN có lúc đó.
4/ Tác giả chỉ ra 4 lý do và 3 mục tiêu TQ đánh VN. Mục
tiêu thứ 3 :
« để Việt Nam - và từ đó, các nước
khác - hiểu là không thể tin cậy vào sự liên minh với Liên Xô, từ đó, có thể
cắt đứt mối liên minh ấy để quay về với Trung Quốc ».
Ý kiến này xem chừng gượng ép.
Vì muốn chứng minh LX là đồng minh
không đáng tin cậy, đáng lẽ TQ phải đánh sâu vào VN (hay ít ra ở lâu tại VN) để
thách thức hay « thử lửa » thái độ của LX ra sao. Việc TQ rút quân vội vã là
yếu tố chứng minh TQ lo ngại LX sẽ can thiệp.
Theo các tài liệu đã công bố, trước
khi đánh VN, Đặng Tiểu Bình có thông báo trước cho HK :
« Khi thăm Mỹ tôi nói cho Việt Nam
bài học, nước Mỹ không tán thành. Chúng ta sử dụng hành động tương đối lớn sợ
dẫn tới phản ứng lớn của Liên Xô, nước Mỹ một mặt phản đối chúng ta trừng phạt,
nhưng mặt khác cũng thông báo cho chúng ta chút tình báo, nói quân đội Liên Xô
về căn bản không động đậy, trên mấy ngàn cấy số biên giới( Trung Xô) chỉ có 54
sư đoàn không đầy đủ quân số »
Thái độ của HK, nói là không ủng hộ,
nhưng lại cung cấp tin tức tình báo cho TQ. Vì vậy TQ mới biết LX không chuẩn
bị cho việc phản công, nếu TQ đánh VN. Do điều này mà Đặng Tiểu Bình quả quyết
đánh. Thái độ « chia sẻ tin tức tình báo » của HK cho thấy là nước này đã đồng
thuận ngầm.
Về phía LX, có thể Kremlin không
chuẩn bị để đánh TQ khi nước này đánh VN, hoặc đánh giá thấp lực lượng của quân
TQ (hay đó là âm mưu của LX và VN). Nhưng khi chiến sự bắt đầu, thái độ của LX cho
thấy nước này có thể làm nhiều việc ngoài dự liệu của TQ để cứu VN, nếu thấy VN
thất thế. (Khi chiến sự bắt đầu, ngoài các phản đối ngoại giao, LX giúp cho VN
các việc : dùng máy bay chuyển quân từ chiến trường Kampuchia lên biên giới,
giúp thêm vũ khí, cho tàu chiến tiến vào vùng biển VN…)
Trong khi, một mục tiêu khác của TQ,
khi đánh VN, là muốn VN rút quân ra khỏi Kampuchi. Nếu không sợ LX can thiệp,
TQ có thể ở lại những vùng đất đã chiếm của VN lâu hơn, buộc VN phải rút quân
toàn bộ ra khỏi Kampuchia rồi mới trả đất, như là điều kiện trao đổi.
Các tài liệu bạch hóa cho thấy TQ đã
đánh giá sai, không những về thực lực và khả năng chiến đấu của quân VN (khoảng
50.000 quân và dân phòng), mà còn tính toán sai về khả năng chiến đấu của quân
Khmer đỏ. VN đã áp dụng một chiến lược thuộc hạng « bậc thầy » của thế giới để
đánh tan quân Khmer đỏ trong vòng vài ngày, trước khi TQ kịp trở tay.
5/ Về thời điểm mở cuộc chiến, tác giả viết :
« chọn thời điểm mở đầu cuộc tấn công
vào giữa tháng Hai để, một mặt, tránh được mùa mưa (thường bắt đầu vào tháng
Tư) và, mặt khác, đã qua hết mùa đông - băng trên các dòng sông dọc biên giới
Trung Quốc và Liên Xô đã tan chảy hết »
Điều này cũng không đúng. Tháng hai,
trên vùng biên giới LX-TQ vẫn còn là mùa đông. Tháng hai, trong vùng phía nam
đường vĩ tuyến 23° 30’ bắc (tropique du cancer), ở vào mùa khô, biển yên cho
đến tháng 4, tháng 5. Phía bắc đường này, tháng hai, vẫn là mùa đông.
6/ Về mục tiêu của Đặng Tiểu Bình :
Dĩ nhiên họ Đặng đã thất bại vì đã
không làm được VN rút khỏi Kampuchia, và quân TQ cũng không dám ở lại trên đất
VN lâu hơn vì sợ phản ứng của LX. Nhưng đó là những thất bại chiến thuật.
Cuộc chiến Việt-Trung 1979 đã đem lại
một chiến thắng vẻ vang cho TQ mà đến nay mới nhìn thấy được. Sẽ không ngoa khi
cho rằng họ Đặng là một nhà chiến lược đại tài, đồng thời là một « kiến trúc sư
» lỗi lạc của TQ thời hiện đại, vượt xa Mao, Tưởng, kể cả Tôn Dật Tiên.
Từ năm 1978, Quân ủy trung ương đã có
những cuộc họp để tìm lý do và mức độ « trừng phạt VN ». Ý kiến chủ đạo ở Quân
ủy TW lúc đó là đánh VN ở mức « trung đoàn », ở một địa điểm trên vùng biên
giới. Tức chỉ đánh « nhỏ », mang tính cảnh cáo.
Nhưng theo cái nhìn của họ Đặng, có
hai mục tiêu phải đạt tới : mục tiêu chiến lược cho TQ và mục tiêu cá nhân của
họ Đặng.
Mục tiếu chiến lược : Đánh một trận
nhỏ (như ý kiến đa số trong Quân ủy) không đủ để chứng minh rằng TQ đã dứt
khoát với VN và LX, để có thể thuyết phục HK (và khối tư bản) giúp cho TQ hiện
đại hóa.
Mục tiêu cá nhân : Đánh trận nhỏ không
đủ cho giới lãnh đạo TQ thấy những cần thiết cấp bách do sự lạc hậu của TQ về
quốc phòng (và kinh tế). Chỉ khi lãnh đạo CSTQ chấp nhận hiện đại hóa TQ, thì
chỉ có họ Đặng mới có tư cách nắm lá cờ lãnh đạo.
Ta thấy, về hai mặt, họ Đặng đã thành
công.
7/ Về hậu quả cho VN :
Đáng lẽ cuộc chiến Việt-Trung 1979
(cũng như cuộc chiến Kampuchia 1978) VN có thể tránh
được. Câu hỏi đặt ra, VN gây hai cuộc chiến này để làm gì ? Có được
lợi lộc gì ?
Tổn thất cho hai cuộc chiến là hàng
trăm ngàn thanh niên VN uổng mạng. Hàng trăm ngàn gia đình ở các tỉnh vùng biên
giới lâm vào cảnh tang thương, mất mát to lớn. Cuộc chiến TQ mở ra là để trừng
phạt, do đó không bắt tù binh (tức giết hết) và phá hoại tất cả những gì của
VN, từ nhà cửa, xí nghiệp... cho tới hạ tầng cơ sở. Sau hơn 3 thập niên, kinh
tế VN vẫn chưa gượng dậy được, mặc dầu có các nguồn tài nguyên hỗ trợ lớn là
dầu khí, nhân lực xuất khẩu cũng như nguồn kiều hối.
Máu xương VN đổ xuống nhưng hiện nay
Kampuchia đã đi vào quĩ đạo của TQ.
Tiêu hao chừng đó, VN không có được
một ích lợi nào. Sẽ không ngạc nhiên khi lãnh đạo CSVN hiện nay cố gắng che giấu
những sự thật về cuộc chiến 1979, không cho tổ chức tưởng niệm các chiến sĩ
cũng như những nạn nhân đã hy sinh cho cuộc chiến. Vì nhắc lại, sự thật phơi
bày, mọi người sẽ thấy được đảng đoàn CSVN chỉ là một tập đoàn ngu xuẩn, đem
máu xương, vật chất, của cải của đất nước VN đi chuốc lấy thù oán với một láng
giềng lớn, mà từ ngàn năm nay các triều vua VN phải nhịn nhục « triều cống » họ
để được sống yên thân.
Đó là cái ngu xuẩn lớn nhứt của thời
đại.
Đó là « lịch sử ». Lịch sử không chỉ
soi rọi lại quá khứ mà còn định hướng cho tương lai.
hoc dieu khac chan may
ReplyDeletehọc diêu khắc chân mày
day dieu khac chan may
dạy điêu khắc chân mày
khoa hoc dieu khac chan may
khóa học điêu khắc chân mày
dieu khac chan may 6d
điêu khắc chân mày 6d
điêu khắc lông mày 6d ở đâu đẹp
dieu khac chan may 6d o dau dep