Hoàng
Sa và Trường Sa là của Việt Nam
Hoàng Việt | Văn Việt
7
Tháng Mười,
2024
https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/hoang-sa-va-quan-dao-la-cua-viet-nam/
Quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm nhiều đảo đá san hô nhỏ và
rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện nay hai quần đảo này đang là tâm điểm tranh chấp
giữa một số nước ven Biển Đông. Đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ, pháp luật quốc tế cho tới nay đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ
quyền, đó là chiếm hữu thông qua sự thực hiện các hoạt động của Nhà nước một
cách thật sự, liên tục và với biện pháp hòa bình. Nguyên tắc này đã được các quốc
gia và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về
chủ quyền lãnh thổ trên thế giới, mà điển hình như vụ đảo Palmas, đảo Pedra
Branca…
Chính
phủ Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo ít nhất từ thế kỷ thứ 17. Nhà nước Việt
Nam là quốc gia đầu tiên, với tư cách Nhà nước, đã chiếm hữu và thực thi chủ
quyền đối với hai quần đảo một cách hòa bình, thực sự và liên tục qua tất cả
các thời kỳ kể từ khi hai quần đảo này chưa thuộc về bất kỳ quốc gia nào. Việc
chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này là hoàn toàn phù hợp,
đáp ứng được các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ.
Các
nguồn tư liệu lịch sử về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa hết sức phong phú, đa dạng, trong đó quan trọng nhất là các tài liệu
chính sử của các nhà nước quân chủ Việt Nam lúc bấy giờ. Đại Nam thực lục là bộ sử lớn nhất của Quốc sử quán triều
Nguyễn ghi chép nhiều tư liệu nhất về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
cũng như các hoạt động của Triều Nguyễn trong việc quản lý, khẳng định, thực
thi chủ quyền trên hai quần đảo này.
Đại Nam
thực lục tiền biên (quyển 10, tờ 24) do
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đời Minh Mạng (1820 – 1841) chép về hoạt động
của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thời chúa Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ, quyển 22, tờ 2; đệ nhất kỷ, quyển
50, tờ 6; đệ nhất kỷ, quyển 52, tờ 15) chép việc vua Gia Long cho tái lập đội
Hoàng Sa, tiếp tục các hoạt động khai thác và thực thi chủ quyền ở quần đảo
Hoàng Sa vào năm 1803; việc vua Gia Long sai người ra khảo sát và đo đạc thủy
trình ở Hoàng Sa vào năm 1815; việc vua Gia Long tiếp tục sai người đi khảo sát
Hoàng Sa vào năm 1816. Cũng Đại
Nam thực lục chính biên (đệ nhị kỷ, quyển
154, tờ 4; đệ nhị kỷ, quyển 165, tờ 24-25; đệ tam kỷ, quyển 49, tờ 5) chép việc
vua Minh Mạng sai người chở vật liệu ra lập miếu thờ thần Hoàng Sa và dựng bia ở
Hoàng Sa vào năm 1835; việc vua Minh Mạng sai Thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật
đem binh thuyền đi khảo sát và cắm mốc chủ quyền ở Hoàng Sa vào năm 1836; việc
phạt tội lưu đày một viên quan của triều đình đã có những hành động càn quấy ở
Quảng Ngãi trong thời gian được phái công vụ ở Hoàng Sa vào năm 1845.
Sách Đại Nam nhất thống chí có hai tư liệu, trong đó một tư liệu
miêu tả về hình thế quần đảo Hoàng Sa, một tư liệu viết về đội Hoàng Sa và đội
Bắc Hải. Sách Quốc
triều chính biên toát yếu có ba tư liệu, trong
đó có một tư liệu chép việc vua Minh Mạng cho lập miếu và dựng bia trên đảo
Hoàng Sa vào năm 1835; một tư liệu chép việc vua Minh Mạng sai Thủy quân suất đội
Phạm Hữu Nhật đem người ra đo đạc hình thế các đảo ở Hoàng Sa vào năm 1836; một
tư liệu chép việc vua Minh Mạng sai người cứu giúp thuyền buôn của nước Anh bị
nạn khi đi qua vùng biển Hoàng Sa vào năm 1836.
Thêm
nữa, các hoạt động quản lý và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được phản ánh đậm nét và cụ thể trong các Châu bản triều Nguyễn. Đây là các văn bản
hành chính chính thức của triều đình nhà Nguyễn, có châu phê của Hoàng đế và ấn
tín các cơ quan nhà nước, là những văn bản mang tính pháp lý cao nhất của một
quốc gia theo chế độ quân chủ tập quyền. Do đó, nó có giá trị lịch sử và giá trị
pháp lý mạnh, sức thuyết phục cao về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Các
văn bản này cho thấy nhà nước quân chủ Việt Nam đã xác lập và triển khai nhiều
hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như
hàng năm cử các đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải ra cắm mốc, đo đạc vẽ bản đồ,
dựng bia, lập miếu, khai thác các tài nguyên sản vật trên biển, thực hiện công
tác cứu hộ, cứu nạn đối với thuyền bè Việt Nam cũng như tàu thuyền nước ngoài gặp
nạn trên vùng biển Việt Nam, ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi đối với
những người được triều đình cử đi thực thi công vụ trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Ngoài
ra, nhiều bản đồ của phương Tây từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 đều thể hiện bằng
hình vẽ hoặc bằng ghi chú vị trí của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở trong
vùng biển Việt Nam, ghi nhận hai quần đảo này là một phần lãnh thổ của Việt
Nam. Ví dụ, trên bản đồ An
Nam đại quốc họa đồ (do
giám mục người Pháp Jean Louis Taberd vẽ và xuất bản, đính kèm trong cuốn từ điển
Latin An Nam năm 1838) có ghi dòng chữ Latin: Paracel seu Cát Vàng, nghĩa là
“Paracel hoặc là Cát Vàng”. Trong các bản đồ và các Atlas liên quan chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt quan trọng là bộ Atlas
Universel de gesographie physique, politique, statistque et mineralogique (Atlas địa
lý tự nhiên, chính trị, thống kê và khoáng sản thế giới, gọi tắt
là Atlas Thế giới hay Atlas Toàn cầu) do Philippe Vandermaelen
(1795-1869), nhà địa lý học người Bỉ, người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ
biên soạn, xuất bản tại Bruxelles (Bỉ) vào năm 1827. Trong đó, tờ bản đồ Partie
de la Cochinchine ở tập 2 khẳng định Paracels (quần đảo Hoàng Sa) thuộc
Việt Nam.
https://vanviet.info/wp-content/uploads/2024/10/image-17.png
An Nam Đại
Quốc Họa Đồ
Sau
khi người Pháp đặt ách cai trị thuộc địa tại Đông Dương vào thế kỷ 19, người
Pháp đã đại diện cho chính quyền triều Nguyễn tiếp tục quản lý hai quần đảo.
Mặc
dù hiện nay chúng ta không còn kiểm soát quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, theo Hiến
chương Liên Hợp Quốc, việc dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án
và không được chấp nhận. Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày
24/10/1970 quy định rõ: “Lãnh
thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết
quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc.
Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia
khác do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ
nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”. Do đó, các hành động
dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế không thể mang lại danh nghĩa pháp lý
cho quốc gia sử dụng vũ lực để chiếm đoạt trái phép quần đảo Hoàng Sa.
Mặc
dù, Hoàng Sa hiện nay bị quốc gia khác chiếm mất và bị bồi lấp và quân sự hoá
trên đó. Nhưng hành động đi ngược với luật pháp quốc tế như vậy sẽ không thể
thành công. Hoàng Sa vẫn mãi mãi là một phần lãnh thổ của Việt Nam.
No comments:
Post a Comment