Về bài diễn văn ở Mỹ của Phạm
Minh Chính
Hiếu
Chân/Người Việt
May 13, 2022
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/ve-bai-dien-van-o-my-cua-pham-minh-chinh/
Chuyến đi Mỹ đầu tiên của ông Phạm Minh Chính,
thủ tướng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), đang thu hút sự chú ý của công luận cả
trong và ngoài nước, đặc biệt là bài diễn văn của ông ở Trung Tâm Nghiên Cứu
Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS) ở Washington. Ông Chính nói gì và nên hiểu ông thế
nào?
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/05/A1-Bai-dien-van-Pham-Minh-Chinh-1068x712.jpg
Ông Phạm Minh Chính
(phải), thủ tướng CSVN, tham gia cuộc họp toàn thể với lãnh đạo Hiệp Hội Các Quốc
Gia Đông Nam Á, các thành viên nội các chính quyền Biden tại Bộ Ngoại Giao Mỹ ở
Washington, DC, hôm 13 Tháng Năm. (Hình: Chip Somodevilla/Getty Images)
Tuy mục đích chính của chuyến đi là tham dự hội
nghị thượng đỉnh đặc biệt Hoa Kỳ-ASEAN nhân kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ
nhưng ông Chính cũng nhân cơ hội này để tiếp xúc với các nhà lãnh đạo chính trị
Hoa Kỳ và sắm vai diễn giả chính trong cuộc thảo luận tại CSIS trước khi hội
nghị thượng đỉnh khai mạc.
Có người cho rằng, sự kiện ông Chính được mời
làm diễn giả chính (keynoter) tại một “think-tank” hàng đầu về chính sách đối
ngoại như CSIS là thể hiện sự trọng thị mà học giới Hoa Kỳ dành cho ông. Không
ai khác trong các nguyên thủ quốc gia ASEAN dự hội nghị ở Washington có “vinh dự”
như ông Chính! Thực ra việc các nhà lãnh đạo Việt Nam được mời phát biểu tại
các trung tâm nghiên cứu của Mỹ không mới, những người trước đây như Nguyễn Phú
Trọng, tổng bí thư; Nguyễn Xuân Phúc, thủ tướng nay là chủ tịch nước, đã làm
như vậy.
Trước khi các ông này sang Hoa Kỳ, Việt Nam
thường chi ra rất nhiều tiền để một vài “think-tank” tổ chức các sự kiện
(event) trong đó nhà lãnh đạo Việt Nam sắm vai diễn giả chính. Mục đích của việc
này là để phổ biến lập trường, quan điểm của đảng CSVN tới giới nghiên cứu,
truyền thông và công chúng Mỹ, từ đó tác động tới chính giới và các nhà hoạch định
chính sách ở Washington. Không riêng Việt Nam mà hầu như tất cả các nước khác đều
có hoạt động “vận động hành lang” (lobby) như vậy.
Vấn đề là nhà lãnh đạo Việt Nam nói gì và có
thuyết phục được công chúng Hoa Kỳ hay không.
Lời hoa mỹ ngược với
cách hành xử
“Từ then chốt” (key words) trong bài diễn văn
dài 5,600 chữ của ông Chính là “chân thành, tin cậy và trách nhiệm” – cụm từ
này được nhắc đi nhắc lại tới 17 lần. Ông cho rằng sở dĩ thế giới hỗn loạn như
hiện nay là do thiếu các phẩm chất tinh thần đó. “Chính thiếu vắng sự chân
thành, lòng tin và trách nhiệm là một trong những nguyên nhân dẫn đến căng thẳng,
xung đột ở nhiều khu vực. Thiếu sự chân thành, tin cậy là nhân tố cản trở
nghiêm trọng đến hợp tác song phương giữa các quốc gia cũng như hợp tác đối phó
với các thách thức khu vực và toàn cầu.” Từ nguyên nhân này, ông cho giải
pháp nằm ở xây dựng, củng cố lòng tin và sự chân thành giữa các quốc gia. “Vì
vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đẩy mạnh xây dựng, củng cố sự chân thành,
lòng tin giữa các quốc gia.”
Thật là một quan điểm kỳ cục! Xung đột, sở dĩ có và luôn luôn có, là do sự va chạm về quyền lợi
kinh tế – chính trị giữa các quốc gia và chỉ có thể giải quyết bằng sự tương
nhượng, tôn trọng luật pháp quốc tế. Nhận định của ông Chính về thế giới chẳng
những không đúng về căn bản mà còn xa rời học thuyết Marxism mà đảng của ông
tôn thờ, theo đó vật chất quyết định ý thức, xung đột trong thế giới khách quan
là do mâu thuẫn của các thế lực vật chất, mâu thuẫn giai cấp là động lực của
phát triển…
Nhưng thôi, nói chuyện triết học với những quan chức
như ông Chính là vô ích. Điều đáng chú ý là những lời hoa mỹ trong bài diễn văn
trước cử tọa Hoa Kỳ của ông trái ngược hẳn với chính sách, cách hành xử của đảng
và chính phủ Việt Nam cả trong đối nội và đối ngoại.
Về đối nội, đảng
CSVN cầm quyền chưa bao giờ chân thành với người dân, làm suy giảm lòng tin của
dân và thiếu trách nhiệm với vận mệnh của đất nước. Có vô số ví dụ thực tiễn chứng
minh cho điều đó; vụ cướp đất Thủ Thiêm ở miền Nam và Đồng Tâm ở miền Bắc, cắt
nhượng lãnh thổ cho Trung Quốc là những trường hợp tiêu biểu.
Về đối ngoại, Việt
Nam cũng chơi trò lá mặt lá trái. Ông Chính nói rất hùng hồn rằng Việt Nam
không chọn bên mà chọn chính nghĩa, chọn lẽ phải. “Việt Nam kiên định đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng
hóa, đa phương hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy với các nước trên thế giới,
là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.”
Thế nhưng ai cũng thấy Việt Nam ngày càng lệ
thuộc vào Trung Quốc, càng đi theo hướng độc tài, chuyên chế, xa rời các giá trị
phổ quát của nhân loại về dân chủ, nhân quyền. Cuộc chiến xâm lược của Nga vào
nước Ukraine độc lập, có chủ quyền là một phép thử và nó cho thấy Hà Nội đã chọn
đứng về phía xâm lược, bỏ phiếu trắng tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, từ chối
lên án hành vi xâm lược của Nga. Việc Việt Nam hỗ trợ nhân đạo nửa triệu đô la
cho Ukraine được ông Chính nhắc tới như một đóng góp của Việt Nam vào tiến
trình hòa giải giữa các quốc gia, nhưng không xóa đi được ấn tượng rằng Việt
Nam là một trong vài quốc gia ủng hộ cuộc xâm lược.
Nói một cách khách quan và công bằng, Việt Nam
chưa công khai đứng hẳn vào phe độc tài, chuyên chế phần vì có những mâu thuẫn
về quyền lợi với Trung Quốc, phần để lợi dụng cơ hội kinh tế từ các quốc gia có
xã hội mở như Hoa Kỳ và Nhật. Chính sách đối ngoại “cây tre” của Việt Nam thực
chất là “gió chiều nào nghiêng chiều ấy,” “đu dây” giữa các cường quốc để bảo vệ
lợi ích thiển cận là chế độ đảng trị của đảng CSVN.
Nỗi ám ảnh mất đảng,
mất chế độ
Nỗi ám ảnh về sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản
(và vai trò thúc đẩy của Hoa Kỳ) cũng lộ rõ trong bài diễn văn của ông Chính.
Ông đã năm lần nhắc đi nhắc lại yêu cầu “tôn trọng thể chế chính trị, độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” và coi đó là một yêu cầu quan trọng trong việc
đối xử giữa các quốc gia. “Mỗi quốc gia cần hành xử một cách có trách nhiệm,
thể hiện trước hết ở việc tuân thủ những cam kết của chính mình, tuân thủ luật
pháp quốc tế, Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, tôn
trọng thể chế chính trị mà mỗi nước đã lựa chọn và được nhân dân ủng hộ,
đóng góp vào công việc chung của cộng đồng quốc tế tuỳ theo khả năng của mình.”
Nên để ý, Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đặt yêu cầu tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, không đề cập tới thể chế chính trị – là
thứ có thể thay đổi theo ý nguyện của dân chúng.
Nỗi ám ảnh đó nổi bật lên từ năm 2013, khi Việt
Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức “đối tác toàn diện” thì một
trong những điều kiện mà Việt Nam đặt ra là Hoa Kỳ phải tôn trọng thể chế chính
trị của họ, bằng văn bản hẳn hoi. Tổng Thống Barack Obama khi ấy đã chấp nhận
và tuyên bố Hoa Kỳ “không làm việc để thay đổi thể chế chính trị của Việt Nam.”
Năm 2015, khi ông Nguyễn Phú Trọng thăm chính
thức Hoa Kỳ, hai bên cũng đã ra tuyên bố chung, trong đó nhấn mạnh tôn trọng
“thể chế chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.” Tổng
Thống Donald Trump trước đây, cũng như Tổng Thống Joe Biden hiện nay đều không
tỏ ý muốn lật đổ chế độ đảng trị ở Hà Nội.
Trong cuộc gặp ngắn ngủi với ông Phạm Minh
Chính ở Tòa Bạch Ốc tối 12 Tháng Năm, Tổng Thống Joe Biden được Thông Tấn Xã Việt
Nam dẫn lời rằng ông đồng tình với ông Chính về tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị giữa các quốc gia, không sử dụng vũ lực,
giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp, xung đột dựa trên cơ sở luật pháp
quốc tế.
Nhưng dẫu vậy, cho đến nay, nỗi lo sợ bị lật đổ
vẫn ám ảnh phe bảo thủ trong đảng CSVN – tập trung ở các ngành an ninh, tuyên
giáo và quân đội – và một bộ phận dân chúng có quyền lợi gắn bó với sự cai trị
của đảng. Những người này lo sợ một cuộc “diễn biến hòa bình” – ám chỉ phong
trào đấu tranh dân chủ và nhân quyền được cho là có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ – sẽ
làm xói mòn hoặc thậm chí làm sụp đổ đảng CSVN. Phe bảo thủ vẫn luôn tìm cách
ngăn cản xu hướng phát triển quan hệ Việt-Mỹ, ngăn cản Hà Nội làm đối tác với Mỹ
trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của Trung Quốc.
Ông Chính liên tục đề cập yêu cầu “tôn trọng
thể chế chính trị” phải chăng là nhắm trấn an thành phần bảo thủ này?
Hợp tác nhưng chỉ
một bên có lợi
Trong bài diễn văn ở CSIS, ông Chính đã thẳng
thắn công nhận“quan hệ hai nước Việt Nam-Hoa Kỳ đã phát triển vượt bậc sau gần
ba thập niên bình thường hoá quan hệ,” và “Hoa Kỳ luôn ủng hộ một Việt Nam hùng
mạnh, độc lập và thịnh vượng.” Ông đánh giá “Mối quan hệ [Việt-Mỹ] đã ‘đơm hoa
kết trái’ với nỗ lực của hai bên,” tuy ai cũng thấy nỗ lực hàn gắn vết thương
chiến tranh, gác lại quá khứ chủ yếu đến từ phía Hoa Kỳ, đảng CSVN cho đến nay
vẫn chưa “chân thành, tin cậy” thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ.
Một ví dụ, chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều lần đề
nghị Việt Nam nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ lên mức “đối tác chiến lược” – tức là
cao hơn một bậc so với đối tác toàn diện – một điều mà Hà Nội chưa chấp nhận một
phần vì sợ gây phản ứng bất lợi từ Bắc Kinh, phần khác vì sự phản đối của thành
phần bảo thủ, cứng rắn trong đảng CSVN và chính phủ Việt Nam. Theo nhiều nhà
phân tích, quan hệ Việt-Mỹ thực chất đã ở mức “đối tác chiến lược toàn diện,”
không kém quan hệ của Việt Nam với Nga, Trung Quốc hay Ấn Độ, nếu không nói là
sâu sắc hơn ở tất cả các phương diện, từ kinh tế, văn hóa giáo dục đến an ninh
quốc phòng.
Dẫu vậy, ông Chính vẫn khăng khăng tuyên bố:
“Việt Nam luôn mong muốn tăng cường quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ trên cơ sở chân
thành, tiếp tục củng cố lòng tin, tăng cường trách nhiệm của cả hai bên, vì lợi
ích chung của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực
và thế giới.” Rồi ông yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ “nỗ lực khắc phục hậu quả chiến
tranh, đưa quan hệ đối tác toàn diện phát triển ổn định, lâu dài, thực chất, hiệu
quả, đi vào chiều sâu, nhất là về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công
nghệ, chuyển đổi số, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chống biến đổi khí
hậu… và trong giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực.” Ông bày tỏ mong muốn của
Việt Nam được Hoa Kỳ tiếp tục giúp đỡ, hỗ trợ và hợp tác trong những lĩnh vực
mà Hoa Kỳ có thế mạnh và Việt Nam có tiềm năng.
Nói như thế, nhưng thực tế cái bóng của Trung
Quốc vẫn trùm lên mọi quyết định hợp tác của đảng CSVN và chính phủ Việt Nam, đặc
biệt là trong quan hệ với Hoa Kỳ. Ví dụ trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam rất cần
sự hậu thuẫn của Mỹ để đối phó với những hành vi chèn ép của Trung Quốc nhưng tới
nay, mỗi khi tàu chiến Mỹ vào Biển Đông để thực hiện quyền tự do hàng hải và
thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc thì Bộ Ngoại Giao Việt Nam lại lên
tiếng “không phản đối nhưng cũng không hoan nghênh.” Ngay cả khi Bộ Ngoại Giao
Mỹ công bố phúc trình bản phúc trình dài 47 trang bác bỏ các yêu sách phi pháp
của Trung Quốc ở Biển Đông thì phản ứng của Việt Nam chỉ là “ghi nhận” mà không
hoan nghênh hay tán thành như các nước khác trong khu vực!
Cách nói của ông Chính có thể hiểu là, Việt
Nam hoan nghênh Hoa Kỳ ở những việc có lợi cho chế độ và không làm Bắc Kinh tức
giận, còn những gì có lợi cho dân cho nước nhưng không phù hợp với quan điểm của
thành phần bảo thủ trong đảng CSVN thì thái độ của Hà Nội sẽ thay đổi.
Cách đối xử thận
trọng của Hoa Kỳ
Chính vì thế, Hoa Kỳ đang có cách đối xử khác.
Ở mặt công khai, Hoa Kỳ đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam trên mọi lĩnh vực, cử các
quan chức cao cấp nhất tới Hà Nội, tặng tàu tuần tra giúp Việt Nam bảo vệ vùng
biển, tặng vaccine và thiết bị y tế giúp chống dịch COVID-19. Nhưng trong những
phòng họp khép cửa, Washington vẫn tiếp tục thảo luận với Việt Nam những vấn đề
khúc mắc trong quan hệ giữa hai nước như dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo,
chênh lệch cán cân thương mại, thao túng tỷ giá tiền tệ v.v…
Chính quyền Biden đã đưa Việt Nam ra khỏi danh
sách các nước thao túng tỷ giá tiền tệ để giành lợi thế về thương mại, dẫn tới
thặng dư của Việt Nam trong buôn bán với Mỹ lên tới $90 tỷ trong năm ngoái,
nhưng trong các cuộc gặp giữa ông Chính với bà Janet Yellen, bộ trưởng Tài
Chính, và bà Gina Raimondo, bộ trưởng Thương Mại, hôm 11 Tháng Năm, những vấn đề
này chắc chắn sẽ được đề cập dù cho đến nay, phía Mỹ vẫn thận trọng không tiết
lộ nội dung các cuộc làm việc.
Tương tự như vậy, bà Wendy Sherman, thứ trưởng
Ngoại Giao, đã có buổi làm việc với ông Hà Kim Ngọc, thứ trưởng Ngoại Giao Việt
Nam, cựu đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Nhân quyền
là vấn đề nhạy cảm nhất trong quan hệ giữa hai nước, hai bên thường có nhiều bất
đồng dù đã có hơn 25 cuộc đối thoại thường niên về nhân quyền. Thứ Trưởng
Sherman được biết đã hối thúc Hà Nội tuân thủ các cam kết quốc tế về quyền con
người, đặt nhân quyền là một trong những ưu tiên trong quan hệ đối ngoại với Việt
Nam, theo ông Ned Price, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.
Cái khó là Việt Nam không bao giờ “thành thật”
– từ then chốt trong bài diễn văn của ông Chính – trong các tuyên bố về nhân
quyền. Hà Nội luôn luôn khẳng định ở Việt Nam không có ai bị bắt vì phát biểu
chính kiến, không có ai là tù nhân chính trị – nhưng thực tế Hà Nội không dung
thứ cho bất kỳ ai có tiếng nói khác với đảng và luôn có sẵn một “kho” tù nhân
lương tâm để đem ra mặc cả khi cần thiết. Sự kiện hai tù nhân chính trị Hồ Đức
Hòa (án 13 năm) và cựu tù nhân Trần Thị Thúy (án tám năm) – cùng bị cáo buộc tội
“hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” – được trả tự do và đi tị nạn ở Mỹ
ngày 11 Tháng Năm, cùng thời điểm chuyến thăm của ông Phạm Minh Chính là một ví
dụ.
Ông Phạm Minh Chính gửi tới công chúng Hoa Kỳ
thông điệp “chân thành, tin cậy và trách nhiệm” như là giải pháp cho các vấn đề
của thế giới, là nền tảng của quan hệ Việt-Mỹ nhưng cách hành xử của chính phủ
của ông dường như ngược lại với phương châm đó. “Đừng nghe Cộng Sản nói…” lời dặn
của cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu xem ra vẫn rất thấm thía. [qd]
No comments:
Post a Comment