Ký ức về ngày 30/4 và cuộc vượt biển bi hùng
Nhiều tác giả Việt Nam và nước
ngoài
30/04/22
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/24817-ky-c-v-ngay-30-4-va-cu-c-vu-t-bi-n-bi-hung
Người
mẹ phi thường
Trần Quốc Việt, 30/04/2022
Ngày hôm nay Đinh Việt vẫn còn xúc động khi nhớ
lại cảnh tượng xảy ra cách đây hàng chục năm : tại một hải cảng ở Malaysia mẹ
ông dùng chiếc rìu tưởng chừng như lớn hơn cả người bà để đục những cái lỗ ở mạn
thuyền để bà cùng năm con không phải bị đuổi trở lại ra biển.
https://live.staticflickr.com/65535/52039244422_eab60b98e1.jpg
Ông
Đinh Việt là cựu Trợ lý Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ từ
2001 đến 2003. Hiện nay ông là giáo sư luật ở Đại học Georgetown, Hoa Kỳ.
Chuyện ấy vào năm 1978 lúc Việt lên mười. Cha
ông là người tù chính trị đang bị giam cầm ở quê hương từng bị chiến tranh tàn
phá, khi mẹ ông, bà Nguyễn Thu Nga, cố trốn thoát khỏi Việt Nam bằng đường biển
cùng với Việt và các con khác. Họ chen chúc cùng với 80 người tỵ nạn khác trên
chiếc thuyền rò rỉ dài độ 4 mét rưỡi. Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại từ
nhà bà ở Garden Grove mẹ ông Việt hồi tưởng "Sau ba ngày, thuyền bị hỏng.
Sau bảy ngày không còn lương thực hay nước uống".
Sau 12 ngày, bà gần như mất tất cả hy vọng.
Nhưng họ tình cờ gặp các ngư dân người Thái. Những người này cho họ lương thực
và dầu, giúp họ sửa lại thuyền và chỉ họ hướng đất liền. Họ đến Malaysia thì bị
tàu tuần cảnh sở tại chào đón bằng những tràng súng. Người Malaysia không muốn
dính dáng gì đến họ. Họ đành bơi vào bờ và thuyền họ được vào cảng, nhưng bà
Nga hiểu rõ rằng sáng mai cảnh sát cảng sẽ buộc họ phải ra đi, cho nên khuya
hôm ấy bà một thân một mình cầm rìu rón rén trở lại thuyền. Bà nói, "Tôi cứ
chém hoài chém mãi để thuyền bị lủng lổ khắp nơi", bà kể. Bà làm thế để chắc
chắn không một viên chức Malaysia nào có thể ra lệnh cho các con bà trở lại biển
cả. Mối liên hệ cuối cùng của gia đình với Việt Nam chìm mất dạng vào biền
Đông.
Hình : https://live.staticflickr.com/65535/52039244412_1af065b802.jpg
Sau sáu tháng tỵ nạn ở Malaysia, gia đình Việt
cuối cùng đến được bang Oregon vào dịp lễ Tạ Ơn năm 1978. Họ kiếm được chút tiền
công ít ỏi từ công việc hái dâu và gởi tiền cho cha và người anh đang lẩn trốn ở
Việt Nam. Sau khi núi lửa St. Helen phun vào 1980, do hoa màu bị thiệt hại nên
gia đình Việt phải dọn đến Fullerton, bang California.
Ở Quận Cam, Việt cùng với mẹ làm việc ở một tiệm
may và sau giờ học còn làm thêm ở các tiệm bán thức ăn nhanh. Sự bền chí của
gia đình đã mang lại kết quả khi người cha cuối cùng cũng đến được Mỹ vào 1983.
Còn Việt nhờ học giỏi và cần cù cuối cùng nhận được học bổng vào đại học
Harvard. Cha mẹ muốn Việt trở thành bác sĩ. Nhưng chính trị là niềm say mê của
ông, niềm say mê ấy do chính mẹ nuôi dưỡng.
"Con tôi ghét cộng sản vì tôi dạy cho
cháu hiểu rằng chính cộng sản đến nhà bắt cha cháu đi và giam trong tù",
bà Nga nói. "Từ thuở nhỏ tôi đã khắc sâu điều này trong tâm khảm
cháu".
Việt tốt nghiệp Á khoa cao học luật ở Harvard
rồi làm thư ký cho Thẩm phán Tối cao Pháp Viện Hoa Kỳ Sandra Day O’Connor, người
mà đã nhận xét về ông như sau : "Ông là người thư ký luật tuyệt vời. Tôi rất
cảm phục trước hoàn cảnh xuất thân của ông và chuyện ông đến Mỹ mà trên người
chẳng có gì cả ngoại trừ bộ áo quần, nhưng ông đã rất bền chí".
Cha mẹ ông ngồi gần ông trong cuộc điều trần bổ
nhiệm ông vào chức vụ Trợ Lý Bộ Trưởng Tư Pháp ở Thượng Viện Hoa Kỳ vào năm
2001. Tại cuộc điều trần này ông bày tỏ sự cảm phục trước gương can đảm của mẹ
và "muôn vàn gian khổ mà cha mẹ tôi cũng như bao nhiêu người khác đã trải
qua để tìm thấy được miền đất hứa của tự do và cơ hội". Ông được Thượng Viện
chấp thuận bổ nhiệm với tổng số phiếu thuận là 96 và 1 phiếu chống duy nhất của
thượng nghị sĩ Hillary Clinton.
Hình : https://live.staticflickr.com/65535/52039244397_060e497fe5.jpg
Hôm ấy nhiều người ắt hẳn rất xúc động khi
nghe ông kể lại hình ảnh không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng ông về người mẹ
dùng hết sức lực vung rìu chém không ngừng nghỉ vào chiếc thuyền nhỏ dưới bóng
màn đêm. Hành động xuất phát từ tình mẹ ấy đã đưa người con đến bến bờ tự do, đến
giảng đường đại học danh tiếng, đến trung tâm quyền lực chính trị Hoa Kỳ. Câu
chuyện của ông là minh chứng cho giấc mơ Mỹ được dệt nên từ tài năng, quyết tâm
và kiên trì.
Trần Quốc Việt
(30/04/2022)
-----------------------
Tài liệu tham khảo :
1. Katie Biber, "Viet Dinh : An
American Story", The Harvard Law Record, 16/4/2003
2. Eric Lichtblau, At Home in
War on Terror, The Los Angeles Times. 19/9/2002
********************
Không
có lòng thương người Việt
Bùi
Diễm
Trần Quốc Việt dịch
Sách của Robert McNamara bàn về Việt Nam, tuy
nhiên sau khi đọc kỹ hai lần từ đầu đến cuối 390 trang, tôi không thể nào tìm
thấy một lời nào qua đó ông bày tỏ lòng cảm thương đến người Việt hay đến nỗi
đau khổ của họ. Hoa Kỳ can dự vào Việt Nam nhân danh một chính sách ngăn chặn
mà, ít ra phần nào về lý thuyết, sẽ giúp cho người Việt bảo vệ mình chống lại độc
tài cộng sản. Nhưng ông McNamara viết như thể nhân dân Việt Nam không bao giờ tồn
tại.
https://live.staticflickr.com/65535/52039244432_bbce199332.jpg
Vào tháng 5 và tháng 5/1972, quân đội Việt Nam Cộng
Hòa đã chặn đứng cuộc tấn công của Bắc Việt vào Sài Gòn tại thị xã An Lộc. Ảnh
chụp ngày 7/7/1972 khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm An Lộc
Ông cho là chính quyền ở Nam Việt Nam tham
nhũng. Chúng tôi, những người đã mất tất cả và đã phải chịu đựng biết bao nhiêu
tủi nhục trong các trại tập trung cộng sản hay với tư cách những người tỵ nạn ở
hải ngoại, không có trách nhiệm bảo vệ chính quyền Nam Việt Nam trước tố cáo
tham nhũng. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông McNamara hãy nhìn tệ nạn tham nhũng đang
hoành hành hiện nay ở Việt Nam. Chúng tôi cũng không biết phải chăng kinh nghiệm
của ông ở Ngân hàng Thế giới kể từ khi ông bắt đầu có quan điểm như thế về
chính quyền Nam Việt Nam đã khiến ông biết chút gì về tệ nạn tham nhũng ở nhiều
nơi khác trên thế giới.
Ông McNamara viết về sự thiếu quyết tâm đấu
tranh cho tự do và dân chủ của nhân dân Miền Nam Việt Nam. Hơn 300.000 đồng bào
tôi đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh này từ một dân số thậm chí chưa bằng một
phần mười dân số Hoa Kỳ. Vào tháng Tư và tháng Năm của năm 1972, quân đội Nam
Việt Nam, chỉ được tiếp tế bằng máy bay, đã bị lực lượng địch quân hùng hậu bao
vây trong thị xã An Lộc nhỏ bé. Họ đã tử thủ qua cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra
ở từng căn nhà một và đã chặn đứng cuộc tấn công của Bắc Việt vào Sài Gòn.
Không có sự tham chiến của bộ binh Mỹ.
Người bảo vệ An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng,
đã tự sát ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ. Ba vị tướng khác, Nguyễn Khoa Nam, Trần
Văn Hai và Lê Nguyên Vỹ, lúc ấy cũng tự sát.
Ông McNamara viết : "Tôi tin chúng ta có
thể rút ra và đáng lẽ rút ra khỏi Nam Việt Nam hoặc vào cuối năm 1963, giữa cuộc
biến động sau cuộc ám sát Diệm, hay vào cuối năm 1964, hoặc đầu năm 1965.
"Tại sao một người được để cao là một trong những người "giỏi nhất và
thông minh nhất "của nước Mỹ lại tàn nhẫn đến thế ? Trực tiếp hay gián tiếp,
Hoa Kỳ đã đứng đằng sau cuộc đảo chính chống Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng
Mười Một năm 1963, nhưng ông McNamara lại ủng hộ cuộc rút lui ngay sau vụ đảo
chính. Đạo đức nào cho phép Hoa Kỳ đến và đi tùy ý, ngay cả sau khi góp phần
vào tình hình rối ren ở Sài Gòn, mà chẳng suy xét gì đến chuyện gì sẽ xảy ra với
người Việt ?
Bùi Diễm
Nguyên tác : "No Feeling for the Vietnamese People", The
Washington Post, 11/05/ 1995.
Trần Quốc Việt dịch
Bùi Diễm là cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ
từ năm 1967 đến năm 1972
********************
Tội
ác đã đẩy hàng trăm ngàn người ra ngoài biển khơi
Harrison
E. Salisbury
Trần Quốc Việt dịch
Những câu chuyện buồn nhất trong tất cả các
câu chuyện ở cuộc hội thảo là những câu chuyện của chính những người Việt. Họ
nói nước Mỹ thua cuộc chiến. Chúng tôi mất nước.
https://live.staticflickr.com/65535/52040286326_d887c47e78.jpg
Tội ác đã đẩy hàng trăm ngàn người ra ngoài biển
khơi
Giọng nói trầm của họ hầu như không truyền xa
quá chiếc micro, nhưng câu chuyện của họ quả là bi thảm. Tại sao Mỹ đến Việt
Nam nếu Mỹ không tôn trọng những cam kết với đồng minh nhỏ bé ? Mục đích của Mỹ
ở Việt Nam là gì ? Phải chăng Mỹ thực sự mang lại tự do và dân chủ cho Đông Nam
Á ?
Những tiếng nói này không chỉ là những tiếng
nói của những người ủng hộ chính phủ cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Những tiếng nói này còn là những tiếng nói đối lập với chính quyền ông Thiệu,
nhiều người trong họ đã ở lại vì họ tin vào thống nhất và hòa giải. Nhưng khi
những chiếc trực thăng cuối cùng bay khỏi Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, ta tưởng như
Việt Nam đã bị xóa tên trên bản đồ Mỹ. Việt Nam bị phó mặc để cho chìm vào sự
hoang tàn của miền đất bị khai quang, vào sự căm thù và đau thương của cuộc chiến
kinh hoàng, vào mưu đồ bất thành của chế độ cộng sản bất tài và đôi khi bất cần.
Buồn nhất là những lời của thuyền nhân. Họ nói
trước đây chưa từng có ai phải rời bỏ quê hương Việt Nam. Chưa từng có ai bỏ nước
ra đi trong lịch sử tự hào của Việt Nam. Chưa từng có ai bỏ nước ra đi trong hai
ngàn năm đấu tranh chống Trung Quốc, bất chấp sự đô hộ rất tàn bạo. Chưa từng
có ai bỏ nước ra đi trong nạn đói vào năm 1945, khi ngoài Bắc có rất nhiều người
chết, và cuộc chiến tranh chống Pháp càng làm cho nạn đói trở nên khốc liệt
hơn. Dù vậy người ở ngoài miền Bắc cũng không vào miền Nam, nơi lương thực dồi
dào. Hai triệu người chết đói.
Bây giờ, và chỉ bây giờ, mọi người mới rời bỏ
Việt Nam-bất kỳ ai có thể vượt biên bằng thuyền hay trốn đi bằng mọi cách.
Hình : https://live.staticflickr.com/65535/52040799155_b47e69cab3.jpg
*
Tiếng
nói của người Việt
Một người tỵ nạn Việt Nam :
Hàng triệu người tỵ nạn đã trốn khỏi Việt Nam.
Đặc biệt những ai liều mình ra đi bằng thuyền đã bỏ lại sau lưng tất cả, gia
đình và quê hương, để đến thế giới tự do. Nếu quý vị nghĩ rằng họ đến đây vì bất
kỳ lý do gì ngoại trừ lý do Việt Nam hiện nay không có nhân quyền thì cho phép
tôi chỉ ra rằng vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến, khi có nạn đói ở miền Bắc Việt Nam,
hàng triệu người chết mà đã không tìm cách trốn khỏi miền Bắc Việt Nam, hay thậm
chí vào Nam, nơi nguồn thực phẩm dồi dào. Họ không ra đi chỉ vì sự ràng buộc
gia đình rất mạnh. Nhưng bây giờ, dưới chế độ Cộng sản, họ đã bất chấp tất cả để
trốn thoát cho được. Thậm chí họ từ bỏ mọi quan hệ gia đình, bởi lẽ chính quyền
hà khắc không tôn trọng con người. Họ không ra đi để có cuộc sống tốt đẹp hon ở
xứ người. Không có nhân quyền chính là nguyên nhân phong trào người tỵ nạn tìm
đến thế giới tự do. Nói rằng bất kỳ chính quyền nào xuất hiện ở Việt Nam sau
chiến tranh cũng đều như vậy thì thật không đúng.
Một người tỵ nạn Việt Nam :
Những gì xảy ra sau chiến tranh đã biện minh
cho sự tham chiến của quân đội Mỹ tại Việt Nam, vì quân đội Mỹ đã thực sự giúp
nhân dân chúng tôi bảo vệ tự do của chúng tôi-dẫu không thành, nhưng họ đã làm
hết sức mình. Chính bao tội ác đã đẩy hàng trăm ngàn người ra ngoài biển khơi
đã biện minh cho sự hiện diện của quân đội Mỹ.
Hình : https://live.staticflickr.com/65535/52040591013_df157bbd55.jpg
Harrison E.
Salisbury
Nguyên tác : "Vietnam
Reconsidered : Lessons From A War", nhà xuất bản
Harper & Row, 1984, trang 214 & 240. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
********************
Thuyền
nhân là nhân chứng cho Chính nghĩa
Bob Kerrey, 5/5/2000
Cuộc chiến tranh khó khăn nhất của thế kỷ qua
không phải là Việt Nam mà là Đệ Nhất Thế Chiến. Vào 1943, năm tôi ra đời, các cựu
chiến binh của cuộc Đại Chiến ấy đang tưởng niệm 25 năm ngày đình chiến trong
lúc con họ đang chiến đấu ở Ý và Pháp chống lại những kẻ thù mà do những ký ức
thất bại cay đắng từ Thế Chiến Thứ Nhất nên sức mạnh quân sự của họ bị coi thường.
https://live.staticflickr.com/65535/52039244362_85831c7355.jpg
Hình ảnh những người Miền Nam Việt Nam leo lên cầu
thang để lên đến trực thăng đáp trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là biểu tượng
cho cả xấu hổ lẫn danh dự của chúng ta
Vì vậy, khi tôi nhớ ngày 30/04/1975, tôi cũng
sẽ nhớ ngày 11/11/1918 và những gì xảy ra khi Mỹ tự cô lập với thế giới. Nhưng
tôi cũng sẽ nhớ niềm tự hào tôi đã cảm thấy khi tôi ngồi trong những buổi họp
lưỡng viện Quốc hội lắng nghe Vaclav Havel, Kim Dae-jung, Lech Walesa và Nelson
Mandela cảm ơn những người Mỹ đã hy sinh rất nhiều cho tự do của họ.
Bức hình nổi tiếng về những người Miền Nam Việt
Nam leo lên cầu thang để lên đến trực thăng đáp trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ ở
Sài Gòn là biểu tượng cho cả xấu hổ lẫn danh dự của chúng ta. Xấu hổ là chúng
ta cuối cùng quay lưng lại với Việt Nam và với sự hy sinh của hơn 58.000 người
Mỹ.
Chúng ta buông xuôi trước mệt mỏi và thiếu tự
tin, chúng ta không giữ lời hứa ủng hộ người Miền Nam Việt Nam, cho nên cộng sản
mới có thể đánh bại đồng minh chúng ta.
Danh dự là trong khi Sài Gòn sụp đổ, chúng ta
đã cứu được hàng ngàn người bạn Miền Nam Việt Nam của mình, và trong những năm
sau đấy chúng ta đã chào đón hơn một triệu người Việt nữa đến đất nước chúng
ta.
Chiến tranh đã dạy cho người trai trẻ học vấn
đại học từ miền trung Mỹ vốn lạc quan nhiều bài học giá trị. Chuyến đi Việt Nam
của tôi giúp tôi cảm nhận được thế giới rất rộng lớn và muôn vẻ của chúng ta.
Tôi cũng đã kinh ngạc trước một điều mà hôm nay vẫn còn làm cho tôi xúc động :
người Mỹ sẵn sàng liều chết cho tự do của người khác. Ở Bệnh viện Hải quân
Philadelphia tôi biết mọi người, ngay cả tôi, đều cần đến lòng tốt của người Mỹ.
Trong chiến tranh, tôi biết chiến đấu cho tự
do là lý do chủ yếu chúng tôi hiện diện ở Việt Nam. Nhưng sau chiến tranh, tôi
trở nên tức giận khi tôi biết nhiều hơn về quá trình đưa ra những quyết định
quan trọng của chính quyền Mỹ. Tôi giận là họ đã không biết gì về những động cơ
của kẻ thù Bắc Việt của chúng ta và lịch sử Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo của chúng ta dường như không
hiểu quyết tâm cao độ của kẻ thù của chúng ta nhằm tạo ra một nước Việt Nam độc
lập theo cách của họ. Tôi rất ghét Tổng thống Nixon vì sự tráo trở của ông
trong cuộc tranh cử với lời hứa kết thúc chiến tranh nhưng rồi, một khi đương
chức, lại mở rộng chiến tranh sang Cambodia. Nhưng thời gian dạy tôi rằng tức
giận cũng vô ích. Vì thế, mới đây tôi bảo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S.
McNamara, tôi tha thứ các nhà lãnh đạo của chúng ta trong thời kỳ Việt Nam.
Tôi có thể tha thứ, không phải do tôi rất rộng
lượng gì mà vì thời gian trôi qua và những hành động của chính quyền cộng sản
Việt Nam chứng tỏ cho tôi thấy chúng ta đã chiến đấu cho lẽ phải. Qua cách họ đối
xử hà khắc với người dân Việt Nam, qua việc không cho phép người dân có thuốc
men và những hàng hóa tiêu thụ thiết yếu, và qua việc đàn áp các hoạt động tôn
giáo, cộng sản Việt Nam trong thời hậu chiến đã chứng tỏ họ chính là cộng sản.
Lời bình luận hùng hồn nhất về đời sống dưới
thời cai trị của những kẻ kế thừa Hồ Chí Minh là cuộc trốn chạy của hàng triệu
người Việt Nam thà liều chết trên đại dương còn hơn sống dưới chế độ ấy. Giá
như có phiên tòa để quyết định liệu chiến tranh Việt Nam có đáng tham chiến,
tôi sẽ gọi Thuyền Nhân ra làm nhân chứng duy nhất của tôi.
https://live.staticflickr.com/65535/52040799135_bb2ef56615.jpg
Cuộc trốn chạy của hàng triệu người Việt Nam thà liều
chết trên đại dương còn hơn sống dưới chế độ ấy.
Phải chăng cuộc chiến tranh này xứng đáng với
bao nỗ lực và hy sinh ấy, hay phải chăng cuộc chiến ấy là sai lầm ? Những ai bị
cuộc chiến này chạm đến phải tự mình trả lời câu hỏi ấy. Khi tôi về nước vào
năm 1969 và suốt trong nhiều năm về sau, tôi đã không tin chiến tranh ấy xứng
đáng. Ngày nay, theo thời gian trôi qua và cùng với bao trải nghiệm về việc
nhìn thấy những lợi ích của tự do đạt được nhờ sự hy sinh của chúng ta và sự hủy
diệt con người do các chế độ độc tài gây ra, tôi tin sự nghiệp ấy là chính
nghĩa và hy sinh ấy không phải là hoài phí.
Bob Kerey
Nguyên tác : "Was
Vietnam War worth it ?", Star-News, 5/5/2000. Tựa đề của
người dịch.
Trần Quốc Việt dịch
Bob Kerey là thượng nghị sĩ dân chủ Hoa Kỳ thuộc
bang Nebraska. Ông từng được trao Huân chương Danh dự cho sự phục vụ của ông tại
Việt Nam.
********************
Chuyến
đi tìm mộ cuối cùng
Liz Mak, The World, 25/06/2018
Carina Hoàng
đang chuẩn bị cho chuyến đi. Đến một nơi hầu hết mọi người không bao giờ nghe đến
: Đảo Kuku, ở vùng Anambas xa xôi, ở Indonesia. Chị sẽ đi tìm mộ.
https://live.staticflickr.com/65535/52040335578_d343d1a618.jpg
Carina Hoàng ngồi trên thuyền trong chuyến đi lần thứ
tám và có lẽ chuyến đi cuối cùng đến Đảo Kuku.
"Thông thường ta không thấy ai thực sự quyết định
trở lại rừng tìm mộ người không quen biết", chị nói. "Nhưng đến nay, bất kỳ lúc nào ai nhờ, tôi cũng không
bao giờ từ chối - vì tôi biết đường còn họ thì không".
Người ta không biết đường đến Kuku vì hầu hết
mọi người không bao giờ nghe đến đảo này ; thậm chí nó cũng không có tên trên hầu
hết các bản đồ. Nhưng đối với Hoàng, Kuku có ý nghĩ đặc biệt. Đấy là nơi cách
đây gần 40 năm chị bị bỏ rơi khi chị chỉ mới 16 tuổi. Đấy là nơi chị phải học
cách sinh tồn.
"Đó không phải
là trại tỵ nạn"
Hoàng là người gốc Việt Nam Cộng Hòa. Quốc gia
này bị đảo lộn sau cuộc chiến Việt Nam. Những người Việt Nam ở miền Bắc chiếm
Việt Nam và áp đặt chế độ cai trị cộng sản. Hàng vạn người bỏ nước ra đi.
Nhưng gia đình Hoàng không đi được. Cha chị, một
cựu trung tá, bị tù đày, còn mẹ chị phải ở lại để trông coi con còn rất nhỏ. Vì
vậy gia đình tìm cách cho Hoàng, lúc đó 16 tuổi ; em trai Sài Gòn, 12 tuổi ; và
em gái Mimi 10 tuổi, vượt biên.
Năm 1979 Hoàng cùng với hai em bước lên thuyền
để trốn khỏi Việt Nam.
Hoàng nhớ chiếc thuyền - dài độ 24 mét rộng 4
mét rưỡi-chở đầy đến 373 người.
"Chúng tôi ngồi bó gối", chị nhớ lại.
"Không có chỗ cựa quậy hay duỗi chân ra".
Họ trải qua một tuần kinh hoàng trên biển cả.
Thuyền họ đến Malaysia, nơi Hoàng nói nhà chức
trách địa phương cướp đoạt họ và rồi đẩy thuyền họ ra lại ngoài biển, không cho
những người tỵ nạn lên bờ. Sau đấy thuyền hết lương thực và nước. Nhiều người bắt
đầu chết trên thuyền.
Vào ngày thứ tám, thuyền đến một làng đánh cá
nhỏ ở Indonesia. Tại đây thuyền trưởng làm chìm thuyền để mọi người không thể bị
đẩy ra lại ngoài biển.
Những người tỵ nạn được ở lại trong làng,
nhưng người ta báo cho họ biết họ sẽ được chuyển đến trại tỵ nạn ở trên đảo
khác. Vì vậy Hoàng và hai em vui vẻ leo lên một chiếc thuyền cuối cùng.
"Thuyền đi rất lâu", chị hồi tưởng. "Phải mất mấy giờ chúng tôi mới đến đảo này.
Chúng tôi thấy đảo hình bán nguyệt này, với bờ biển cát đẹp và cây cối".
Khi chị và những người khác rời thuyền để bơi
vào bờ, Hoàng cảm nhận cái gì đấy không bình thường.
"Chúng tôi nhìn quanh", chị nói. "Chỉ thấy toàn là rừng rậm. Chúng tôi chẳng thấy bất
kỳ nhà cửa, lều hay trại nào. Chỉ là đảo với cây cối và bụi rậm. Còn trước mặt
chúng tôi là đại dương. Đó không phải là trại tỵ nạn".
Đảo hoàn toàn không có người ở. Không có nhà cửa,
đường xá, tuyệt nhiên không có dấu hiệu gì của cuộc sống con người. Đấy là nơi
hoàn toàn hoang dã. Sau khi họ lên bờ, chiếc thuyền bỏ đi.
Đêm ấy Hoàng và hai em ngủ trên bờ biển, dưới
cơn mưa tầm tã.
Mọi người ngồi trên bờ biển, ngóng đợi thuyền
quay lại. Một ngày trôi qua. Rồi hai ngày.
"Đến ngày thứ ba mọi người bắt đầu nhận thức rằng
có lẽ chúng tôi sẽ ở lại nơi này". Hoàng nói.
"Người ta bắt
đầu chết"
Đây là Đảo Kuku, thật ra nó là Bãi biển Kuku,
trên Đảo Jemaja. Nhưng tất cả những người tỵ nạn chỉ biết quanh họ chỉ
toàn rừng rậm và không có bóng thuyền bè lai vãng. Cho nên họ gọi đảo là
Kuku.
Trên Kuku, không có công cụ, không có lương thực
dự trữ, không có nhà vệ sinh. Người tỵ nạn chỉ có những thứ họ mang theo để
giúp họ tồn tại.
"Có rất nhiều dừa", Hoàng nói. "Nhưng chúng tôi không thể trèo lên cây hái dừa. Mà
dù có hái xuống thì chúng tôi cũng không có dao hay bất kỳ cái gì dùng để chặt
dừa".
Người tỵ nạn không còn cách nào khác chỉ còn
biết sống nhờ vào đảo. Đối với hầu hết mọi người, cuộc sinh tồn thật chẳng dễ
dàng.
"Tôi sợ bơi ra biển để bắt mấy con vật", Hoàng nói. "Tôi không biết bắt cá hay săn bắn. Tôi sợ rắn rết
và thú dữ. Tôi ngại đi vào rừng".
Ban đầu, Hoàng và hai em sống nhờ vào những
gói mì họ mang theo. Mỗi ngày chị thường xé ra một gói mì rồi bẻ ra làm bốn
góc. Một bữa ăn ba chị em ăn chung một góc gói mỳ. Họ làm mọi cách để sống,
nhưng bệnh bắt đầu lan rộng ra. Người ta bắt đầu chết vì sốt rét và tiêu chảy.
"Người ta bắt đầu chết trên đảo đó sau ngày thứ
10", Hoàng nói.
Tình cảnh trở nên thê thảm đến mức chẳng mấy
chốc Hoàng tuyệt vọng.
"Chúng tôi chẳng ăn gì trong mấy ngày trời", chị nhớ lại. "Em gái tôi và em trai tôi nằm ra đấy như
xác chết. Chúng chỉ nói thì thầm : Chị ơi, em khát quá, đói quá và yếu lắm".
Nhiều lần tôi nghĩ, "chúng tôi sẽ
không qua khỏi".
Nhưng ngay cả khi họ càng ngày càng trở nên yếu
hơn, những người tỵ nạn vẫn không nản lòng.
Họ còn sống nhờ ăn cá và thằn lằn và bất kỳ
con gì khác họ có thể săn được.
Họ sống được một tháng. Rồi hai tháng. Rồi ba
tháng.
Trong tháng thứ ba ấy, họ giật mình khi nghe
tiếng gì đấy bay trên trời.
"Chúng tôi nhìn lên và có chiếc trực
thăng mang phù hiệu Hồng Thập Tự bay vòng quanh", Hoàng nói. "Mọi
người nhảy tưng lên và la hét và vẫy tay không ngừng. Đến lúc ấy chúng tôi biết
chúng tôi sẽ bình an. Và chúng tôi còn sống. Cả ba chị em chúng tôi".
"Đây sẽ là
chuyến đi cuối cùng của tôi trở lại Đảo Kuku"
Sau khi Hồng Thập Tự đến, Hoàng và hai em ở lại
Kuku thêm năm tháng khi Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc lập ra trại tỵ nạn trên đảo.
Họ được chuyển đến trại tỵ nạn khác trên Golang thêm hai tháng trước khi cuối
cùng họ được tái định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây, họ cố gắng quên đi Kuku.
"Tôi không bao giờ nghĩ tôi sẽ thấy lại hay muốn
thấy lại Kuku", Hoàng nói.
Nhưng Kuku tìm đến chị. Vào giữa thập niên
1990, dì của Hoàng cũng từng trốn khỏi Việt Nam và bị kẹt trên một hòn đảo gần
đấy ở Indonesia, nhờ Hoàng trở lại. Bà muốn Hoàng tìm hài cốt con đã mất ở đấy
để dựng bia mộ tử tế.
Khi trên đảo Anambas có người qua đời, người tỵ
nạn tìm bất kỳ tảng đá lớn nào để đánh dấu mộ.
Khi những người Việt khác nghe chuyện Hoàng đi
đến các đảo Anambas, họ bắt đầu cũng nhờ chị đưa họ trở lại chốn xưa. Vào thời
đó, có rất ít thông tin về các đảo này hay cách đi đến đấy. Khi Hoàng lần đầu đến
Lãnh sự quán Indonesia, thậm chí các nhân viên ở đấy cũng chưa từng bao giờ
nghe đến các đảo này.
Ngay cả hôm nay, chuyến đi cũng phải sắp đặt
công phu, phải bay đến Singapore, đi thuyền đến Batam, bay tiếp đến Tanjung
Pinang, rồi đi ba lần thuyền nữa đến Kuku. Hoàng nói mỗi chuyến đi chị phải mất
hàng tháng trời chuẩn bị, chị phải báo trước cho các chính quyền địa phương.
Không ai trả công cho chị để làm công việc này.
Những ai liên lạc với Hoàng cũng muốn tìm hài
cốt của người thân và làm mộ tử tế cho họ. Vì thế Hoàng đồng ý trở lại Đảo Kuku
một lần, rồi thành hai lần. Rồi ba, bốn lần. Đến nay, Hoàng đã trở lại bảy lần.
Rồi từ đó đến nay, Hoàng đã giúp đỡ khoảng 15
gia đình đi tìm lại mộ người thân. Nhưng, chị nói, tuy những chuyến đi tìm mộ
làm cho chị mãn nguyện và hàn gắn vết thương lòng, nhưng cũng ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe.
"Sau rất nhiều chuyến đi tìm mộ", Hoàng nói, "Tôi cảm thấy đuối sức. Đã đến lúc tôi phải ngưng lại.
Chuyến đi này sẽ là chuyến đi cuối cùng của tôi trở lại Đảo Kuku".
https://live.staticflickr.com/65535/52040335548_5279134f5c.jpg
Hành khách ngồi trên chiếc thuyền cuối cùng đến Đảo
Kuku
"Tôi đã cố gắng
quên đi"
Tony Lưu, 57 tuổi, mẹ anh, Trương Ơn, 77 tuổi,
và em anh, Daniel, tham gia vào chuyến đi cuối cùng của Hoàng đến Đảo
Kuku.
Họ cùng nhau đi tìm mộ của Lưu Cao, cha của
Tony Lưu, mất ở trên đảo cách đây gần 40 năm. Lưu nói anh lo lắng trước những
gì anh có thể thấy.
Hoàng và Lưu cả hai đến Kuku vào tháng Sáu
1979. Họ là những người đi chính chuyến tàu đầu tiên đến đảo và họ trải qua những
ngày tháng khó khăn nhất ở đấy.
Lưu 18 tuổi khi anh từ giã Kuku và bỏ lại lại
sau lưng người cha nằm dưới nấm mộ vùi nông. Trong suốt thời gian về sau, anh
chưa bao giờ nói với một ai về chuyện đã xảy ra ở đấy : cha anh, bị bệnh sốt
rét, mất trên đảo như thế nào.
"Tôi không bao giờ nghĩ cha có thể chết", Lưu nói, "Cho nên tôi không bao giờ muốn nói đến chuyện đó nữa.
Tôi thậm chí không bao giờ muốn nhớ đến. Tôi cố gắng quên đi".
Nhưng ngoài nỗi đau cha chết, trong suốt bốn
chục năm qua Lưu còn mang nặng bên mình một nỗi đau khác còn lớn hơn nhiều. Anh
nghĩ anh có can hệ đến cái chết của cha.
"Tôi là nguyên nhân khiến cha tôi mất", Lưu nói.
Lưu tin cha anh không bao giờ phải rời Việt
Nam. Lưu 18 tuổi lúc họ ra đi vì cha mẹ anh lo lắng anh sẽ bị bắt đi quân dịch
và rồi cuối cùng có thể đánh nhau trong cuộc xung đột biên giới giữa Việt Nam với
Cambodia.
Lưu miễn cưỡng tham gia vào chuyến đi trở lại
Đảo Kuku, nơi anh muốn quên đi mãi mãi. Anh đi chính vì mẹ, để mẹ thực hiện ước
mơ của mẹ là dựng bia mộ cho cha và tỏ lòng thành kính trước mộ người.
"Nhưng trong thâm tâm tôi biết tôi phải làm điều
này", anh nói. "Chỉ có tôi thôi, tôi cảm thấy
tôi không có can đảm, tôi không có dũng cảm. Điều ấy khiến tôi buồn phiền".
https://live.staticflickr.com/65535/52040335538_cb228e8d21.jpg
Carina Hoàng, trái, và con gái, phải ôm nhau trên
chuyến thuyền tới Đảo Kuku
Đảo Kuku giống như đảo nghỉ mát : những bóng dừa
rải rác trên bờ biển đong đưa qua lại. Tiếng của sóng biển màu ngọc xanh tạo
cho du khách cảm giác êm đềm giả tạo, vì ở phía xa đằng sau, rừng rậm lờ mờ hiện
ra.
Hoàng khóc suốt từ lúc từ xa chị đã nhận ra
Kuku . Bây giờ, nước mắt vẫn chảy xuống theo bước chân chị đi trên cát.
"Bây giờ tôi đang đứng ở đây, tôi cũng thật sự
không biết tại sao chúng tôi vẫn còn sống", chị nói. "Đúng là phép lạ. Chẳng ai ở thế giới bên ngoài biết
chúng ta đang ở đây. Chỉ có bụi rậm, cây cối và rừng thẳm".
Cả nhóm đi theo Hoàng, người biết rành địa lý
trên Kuku sau bảy chuyến đi trở lại trong mười năm. Chị đi đến con suối nhỏ,
nơi Trương Ơn nhớ đã chôn người chồng quá cố. Hoàng nói chị biết về một nghĩa địa
lớn gần đấy. Trước đây chị đã tìm thấy những nấm mồ khác ở đấy.
https://live.staticflickr.com/65535/52040799060_bcda668d79.jpg
Cổng được xây dựng để vinh danh những người tỵ nạn
trên Đảo Kuku.
"Tôi đã đặt tảng
đá ấy"
Một số mộ bên suối có những tấm bia lớn xây bằng
xi măng đơn sơ có khắc tên và ngày tháng năm của người đã khuất. Đây là những mộ
của những người mà gia đình họ đã quay trở lại với Hoàng và đã tìm thấy được.
Rồi có những nấm mộ không có ai trở lại tìm.
Những tảng đá lớn nằm rải rác khắp nơi khiến ta không rõ đá nào đánh dấu mộ đá
nào chỉ là đá thường.
Hôm nay, đi tìm mộ cha của Lưu, sẽ là chuyến
đi tìm mộ cuối cùng của Hoàng trên Kuku. Lưu lúc 18 tuổi đã chọn tảng đá để
đánh đấu mộ cha. Anh nhớ anh đã tìm được một tảng đá khá lớn, hình tam giác, có
bề mặt láng.
Hoàng đưa những người dân địa phương đi cùng với
chị ra đảo để giúp khai quang lá và đất che lấp kín các mộ. Khi nhóm đến khu vực
nơi gia đình Lưu bắt đầu tìm kiếm cha, Hoàng chỉ những tảng đá khác nhau và hỏi
gia đình có nhận ra tảng đá nào quen không. Một tảng đá đập vào mắt họ. Họ nhìn
tảng đá đến mấy phút, cố gắng nhớ lại nơi họ đặt bia mộ cha cách đây gần 40
năm. Và rồi, sau dường như chỉ nửa giờ, Lưu chỉ tảng đá có hình tam giác.
"Tôi đã đặt tảng đá ấy", anh nói.
Không có cách nào chứng minh rằng đây thực sự
chính là tảng đá mà Lưu còn nhớ chỉ bằng cách nhìn nó thôi. Cách duy nhất để biết
có đúng là tảng đá ấy hay không là phải khai quật hài cốt để tìm đồ dùng cá
nhân hay áo quần thân thuộc của cha họ. Nhưng gia đình quyết định họ không muốn
dùng đến cách tàn nhẫn như thế. Họ không muốn động mồ mả.
https://live.staticflickr.com/65535/52039244287_5b83c0d0f1.jpg
Tony Lưu cùng mẹ, Trương Ơn, và Carina Hoàng cúng
trước mộ cha của anh
Đối với gia đình Lưu, dù hoàn toàn không chắc
chắn, nhưng như vậy cũng đủ.
Trong bốn mươi năm qua mẹ Lưu thường muốn lo
cho mồ mả chồng. Bà rửa tảng đá. Rồi bà đốt hương và cắm hương trên mặt đất bên
cạnh trái cây cúng. Hai anh em mỗi người ở riêng với cha một lát. Tony bật khóc
nức nở.
Hoàng đứng ở phía sau nhìn. Chị cũng khóc tự
lúc nào.
"Tôi buồn khi thấy mộ sao mà thảm thương", chị nói.
Tảng đá đủ lớn để giữ trong hai tay. Đá không
có nét chữ hay dấu khắc ; nó chỉ là tảng đá tốt nhất mà Tony tìm được lúc ấy,
được đặt lên trên một khoảng đất trống, trên một hòn đảo hoang vắng giữa đại
dương. Nó rất quan trọng, nhưng đồng thời, bia mộ tạm ấy sao có vẻ rất buồn thảm.
https://live.staticflickr.com/65535/52039244282_b934e5ecdd.jpg
Hai anh em Tony và Daniel Lưu khắc chữ và ngày tháng
vào bia mộ cha.
"Họ không bị
lãng quên"
Mọi người quay về trước khi trời tối. Họ băng
qua con suối, đi ra khỏi rừng, đi qua đám cỏ cao, qua bờ biển để leo lại lên
thuyền.
Ngày hôm sau, tại nhà trọ, Lưu trầm tư về chuyện
tìm thấy mộ. Anh nói mặc dù điều này sẽ giúp anh có được sự bình an để sống tiếp,
nhưng anh cũng nói có những điều anh tin anh sẽ không bao giờ vượt qua được.
"Đôi khi", anh nói, "tôi hồi tưởng. Nếu như chúng tôi biết trước chúng
tôi sẽ trả giá rất đắt như vậy thì liệu chúng tôi vẫn quyết định ra đi ?"
Còn Hoàng, thật khó hiểu điều gì đã khiến chị
hết lần này đến lần khác sẵn sàng trở lại đảo nơi chị trải qua bao khổ đau.
Hoàng nói điều thôi thúc chị bắt nguồn từ một ký ức chị không bao giờ có thể
quên được.
"Khi chúng tôi ở trên Đảo Kuku, chúng tôi chẳng
có thuốc men", chị nói. "Nhiều
lúc tôi ở đấy ban đêm. Tôi đếm số người đang hấp hối ngồi quanh tôi. Buối sáng
khi tôi trở lại, tôi biết sẽ mất đi một hay hai người".
"Trở lại đây, tôi nghĩ đó là điều tối thiểu tôi
có thể làm được cho những người đã khuất ở đây. Và tôi nghĩ điều tối thiểu ai
cũng có thể làm được là đưa gia đinh họ trở lại thăm viếng họ để họ biết rằng họ
không bị lãng quên".
Liz Mak
Nguyên tác : "A
former refugee leads families back to an Indonesian island so they can find
graves", The World, 25/06/2018
Trần Quốc Việt dịch
********************
Nước
Mỹ ơi, xin hãy giúp đỡ nhân dân tôi
Nguyễn Thị Anh, Los Angeles Times,
22/4/1975
Tôi là y tá chuyên nghiệp, sinh ra và được đào
tạo tại Việt Nam, cho nên tôi cố gắng sống theo qui ước đạo đức nghề nghiệp của
mình. Vì vậy tôi cất lên tiếng kêu đau khổ cho nhân dân tôi.
https://live.staticflickr.com/65535/52040536899_53cf6920ca.jpg
"Chúng tôi thuộc phe thua trận và gia đình tôi
bị đàn áp". Photograph : Express Newspapers/Getty Images
Với tất cả những người dân Miền Nam Việt Nam
đang chạy nạn đến hàng triệu người : đồng bào thật sự chạy đi đâu ? Số phận của
đồng bào đang ở trong tay của những kẻ rất quyền thế mà đang quyết định đồng
bào sẽ sống ở đâu vào khi nào và như thế nào, nếu đồng bào may ra còn sống.
Đồng bào đã không bao giờ được ai hỏi muốn sống
như thế nào. Tiếng nói của đồng bào chẳng được ai nghe ở bất kỳ nơi đâu, dù ở
miền bắc, ở miền nam, hay trên thế giới.
Những kẻ rất quyền thế ấy đã quyết định đất nước
của đồng bào phải bị chia cắt thành hai, lòng người phải đau khổ và gia đình phải
chia lìa, vì thế họ ký hiệp định Geneva. Rồi đồng bào bỏ chạy. Họ quyết định
con của đồng bào phải đánh nhau, vì thế con của đồng bào đi và chết. Họ quyết định
cho đồng bào lấy lại hơi một chút, vì thế họ ký hiệp định Paris. Rồi một trong
những kẻ rất quyền thế ấy quyết định đồng bào không đáng được họ ủng hộ, vì thế
họ trút bỏ trách nhiệm.
Phía bên kia quyết định đất đai của đồng bào
trù phú, đồng bào thuộc về họ, vì thế họ đến để giành lấy đồng bào. Bây giờ đồng
bào lại bỏ chạy. Đến đâu ? Để được gì ? Được tự do, được giải thoát, được bảo vệ,
được chết ?
Tất nhiên đồng bào không muốn những kẻ độc tài
cai trị mình : đồng bào cũng không muốn bị giết chết mà không có lý do. Tàn nhẫn
thay đồng bào cũng không được phép có giấc mơ hoang tưởng nhất là mình và gia
đình mình được bình an vô sự.
Chạy hay ở lại đối với đồng bào đều bế tắc.
Bây giờ trước mặt đồng bào là đại dương. Đồng bào không còn chỗ để chạy tiếp.
Bây giờ đồng bào cũng không có đến cả một bát cháo nhỏ dằn bụng để khỏi đói cồn
cào, cũng không có những giọt sữa cho trẻ thơ.
Đâu đấy trong thế giới rất giàu mạnh này, họ
nói thiếu thực phẩm sẽ ảnh hưởng đến não của con nhỏ của đồng bào, chúng sẽ trở
nên khờ dại, chúng sẽ lớn lên thành những người lớn bị rối loạn cảm xúc. Làm
sao đồng bào biết điều ấy ? Đồng bào bây giờ chỉ biết rằng đồng bào đang chờ,
và đồng bào nhìn thấy con mình ngày một gầy hơn, và ngày nào đấy chúng chết. Đời
là như thế đấy. Số phận là thế đấy. Không có thực phẩm, hay không có đủ. Không
nơi lánh nạn. Thậm chí chẳng có gì đáp ứng nhu cầu căn bản của đồng bào.
Đồng bào đang chờ những kẻ rất quyền thế từ
bên ngoài đến giúp. Đồng bào không bao giờ nghi ngờ : Họ sẽ đến giúp. Cuộc chiến
này biết đâu vẫn chưa kết thúc. Đồng bào đang chờ. Đồng bào nhìn ra biển, đồng
bào nhìn lên trời. Sự cứu giúp sẽ đến từ đấy. Họ không bao giờ làm cho đồng bào
thất vọng. Ít ra bầu trời đủ lớn cho tất cả mọi người ; đồng bào có thể nhìn trời
mà không bị những kẻ cầm quyền ở bất kỳ bên nào trừng phạt.
Với những kẻ rất quyền thế trên thế giới : Quý
vị cho đến nay đã làm được gì ? Tại sao quý vị không làm nhanh lên ? Qúy vị đã
lo được cho vài trăm trẻ mồ côi được chọn lọc kỹ càng. Còn tất cả những người
khác thì sao ?
Có lẽ bây giờ đành trông chờ vào những cá
nhân, rất nhiều những cá nhân như bạn sẵn sàng giúp đỡ. Bạn có thể gọi
Washington hay hỏi tổ chức từ thiện địa phương của bạn cách thức giúp đỡ. Nhưng
có lẽ bạn sẽ không giúp- điện thoại bận và bạn không thể chờ.
Quốc hội nói sẽ cho tiền, nhưng trong lúc ấy
những người tỵ nạn đang chạy trốn, đang run rẩy. Trong nước này, hàng triệu
công dân thường sẵn sàng cho, hoặc để xoa dịu lương tâm xã hội của mình hay vì
những lý do thuần túy nhân đạo. Nhưng cho đến nay người ta mới chỉ có những nỗ
lực thưa thớt nhằm cố gắng tổ chức giúp đỡ hàng triệu người tỵ nạn.
Vì thế bây giờ tôi kêu gọi những cá nhân người
Mỹ. Hãy bỏ qua bao lo ngại và chính trị ; đã quá đủ về "Chúng tôi không biết
tiền chúng tôi đi đâu" hay "Chúng tôi không muốn cho tiền chính phủ
Thiệu". Hiện nay không còn chính phủ Thiệu. Bây giờ chỉ hãy nghĩ đến những
người tỵ nạn, trẻ em, trẻ mồ côi.
Tôi lúc nào cũng nghĩ về họ. Cách đây nhiều
năm anh tôi bị cộng sản sát hại khi anh tôi hoạt động với lực lượng "kháng
chiến".
Bản thân tôi làm việc với chính quyền Sài Gòn
trong 16 năm, dành nhiều năm trong thời gian ấy đấu tranh cho những thay đổi về
giáo dục y tá và về sự phân phối tốt hơn công việc y tá. Nỗ lực của tôi thất
bại, cho nên tôi xin chiếu khán xuất cảnh. Sau hai năm tôi được cấp chiếu khán,
nhưng tôi không được phép dùng tiền của tôi cho việc học của mình.
Vì thế, bạn thấy, tôi xuất thân từ nhân dân ;
khác biệt duy nhất là tôi có phương tiện để mưu cầu tự do cho mình, còn những
người khác không có. Do vậy tôi hôm nay có thể khẩn cầu điều này : Nước Mỹ
ơi, xin hãy giúp đỡ nhân dân tôi.
Họ chẳng còn biết trông cậy vào ai khác. Họ
tin cậy vào bạn là người tin vào những quyền tự do thiết yếu của nhân loại và
tin vào sự gìn giữ sinh mạng của con người.
Nguyễn Thị Anh
Nguyên tác : ‘Please, America, Help My People’,
Los Angeles Times, 22/4/1975
Trần Quốc Việt dịch
Nguyễn Thị Anh là sinh viên cao học về giáo dục ở đại
học UCLA.
*******************
Tình
cha như núi, lòng con như biển
James Zumwalt, The Washington Post,
09/10/1994.
"Lòng tôi rất đau buồn trước cảnh như thế",
cựu Đề đốc Trần Văn Chơn, 74 tuổi, nguyên tư lệnh Hải quân miền Nam Việt Nam
trước đây nói. "Cuối cùng tôi nhận thức hiện thực là tôi đang chứng
kiến những giờ phút tự do cuối cùng của nước tôi". Ông hồi tưởng những
ngày tháng Tư 1975 khi những đơn vị cộng sản ở ngay sát bên ngoài Sài Gòn (chẳng
bao lâu sau đó bị đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh), đang chờ đợi cuộc di tản
cuối cùng của các nhân viên Mỹ. Hỗn loạn bao trùm khi hàng ngàn người Việt tràn
ngập phi trường thành phố, bến cảng và tòa đại sứ Mỹ, để tìm mọi cách ra khỏi
nước.
https://live.staticflickr.com/65535/52040286386_d062f9590a.jpg
Đề Đốc TRẦN VĂN CHƠN,Tư Lệnh Hải Quân VNCH
Ông Chơn may mắn. Vài ngày trước đó, Tòa đại sứ
Mỹ báo cho ông biết bạn hữu của ông ở Washington đã sắp xếp cho ông di tản cùng
với vợ, Lâm Thị Loan, 10 người con và cha mẹ ông đã ngoài tám mươi. Khi thời điểm
di tản đến gần, ông Chơn tụ họp con cái ở độ tuổi từ 7 đến 29 lại và đi đón mẹ
ông, Lê Thị Đô, và cha ông, Trần Văn Núi, cách nhà độ 72 cây số ở Vũng Tàu, quê
hương thời niên thiếu của ông. Ông giải thích họ sẽ phải ra đi. Cha ông chẳng
nói gì, nhưng ông Chơn thấy mắt cha ngấn lệ.
Ông Chơn thấu hiểu nỗi khổ tâm của cha. Vũng
Tàu là nơi cha ông chôn nhau cắt rốn ; nơi có mồ mả ông bà tổ tiên. Bây giờ ở
tuổi gần đất xa trời, cha ông sẽ phải rời bỏ nơi chốn duy nhất cha ông biết
này. Ông Chơn nghĩ thời gian qua đi cha ông sẽ chấp nhận số phận này. Tuy nhiên
trong thời gian gia đình chờ ra đi, cha ông vẫn lặng lẽ chẳng nói năng
gì.
Cuối cùng nhận được điện thoại báo ra đi, ông
Chơn tập trung cả gia đình lại. Nhưng khi ông thấy cha ông rất đau khổ lúc sắp
phải cất bước ra đi, lòng ông Chơn đã quyết định dứt khoát rõ ràng.
"Cả gia đình ta nghe đây", ông tuyên
bố, "chúng ta sẽ không đi !". Mọi người đều im lặng trước quyết định
phút cuối này trong lúc ông Chơn liếc nhìn cha.
Một vài ngày sau, 30 tháng Tư, 1975, sau khi Mỹ
di tản xong, quân đội chiến thắng của cộng sản tiến vào Sài Gòn.
Tất cả các nhân viên quân sự miền Nam Việt Nam
dù tại ngũ hay giải ngũ đều buộc phải ra trình diện cộng sản. Các con trai của
ông Chơn là Trúc, Trung và Chánh cũng phục vụ trong quân đội. Trúc đã thoát bằng
tàu vào lúc Sài Gòn thất thủ. Hai người con còn lại và ông Chơn không chịu ra
trình diện, lẫn tránh trong vài tuần lễ và cố gắng tổ chức phong trào kháng chiến.
Tuy nhiên, sự sụp đổ nhanh chóng và hoàn toàn của chính quyền miền Nam Việt Nam
khiến bao nỗ lực của họ không thành. Cả ba người trở thành những kẻ tội phạm sống
ngoài vòng pháp luật ở trong nước mình.
Nhận thức rằng nếu cứ tiếp tục lẫn trốn họ sẽ
làm hại chính những người che giấu họ, ông Chơn quyết định tốt nhất nên ra
trình diện. Trước khi đi, ông trở về Vũng Tàu thăm cha mẹ, biết đâu đây là lần
cuối cùng ông thấy họ.
Trở lại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Chơn tạm biệt
gia đình. Ông nhờ con ông Trung đưa ông đến địa điểm trình diện. Lúc những bộ đội
đứng gác quay mặt đi, cha con ôm nhau lần cuối cùng. Vài ngày sau, Trung và
Chánh, theo gương cha, cũng ra trình diện.
Ba người bị giam ở những trại tù khác nhau.
Trong trại họ bị "cải tạo", mà được coi là cần thiết để xóa bỏ ảnh hưởng
tuyên truyền của Mỹ. Cải tạo được tiến hành qua một chế độ lao động nặng nề và
học tập về chủ nghĩa cộng sản.
Vì không bao giờ bị đưa ra tòa xét xử và chính
thức bị kết án nên ông Chơn và các con, cũng như bao nhiêu người tù khác, đều
không biết họ sẽ bị giam giữ đến bao lâu. Đây là khía cạnh khó khăn nhất trong
cảnh lao tù khắc nghiệt của họ. Sau ba năm Trung bất ngờ được thả ra ; còn
Chánh ở tù đến bảy năm. Đề đốc Chơn bị giam suốt 12 năm trời trước khi được thả
ra vào ngày 2 tháng Chín, 1987, chủ yếu nhờ những nỗ lực vận động của bạn bè tại
Mỹ.
Từ nhà tù ở miền Bắc Việt Nam, ông Chơn lên
tàu lửa về lại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi gia đình và bạn bè chào đón ông. Họ
tưởng đâu gặp lại một người đã bị suy sụp về thể xác lẫn tinh thần bởi hoàn cảnh
lao tù rất hà khắc và thiếu sự chăm sóc y tế. Nhưng mái tóc bạc trắng phủ đến
vai của ông Chơn bao quanh khuôn mặt thanh xuân. Đôi mắt ông ánh lên tinh thần
mạnh mẽ.
Ông Chơn liền biết tại sao chỉ có ba con ra
đón mừng ông. Giống như Trúc con ông, sáu người con khác đã vượt biên bằng thuyền
hay bằng đường bộ.
"Ba má anh đâu hả mình ?". Ông hỏi vợ
mà lòng rất sợ điều ông đã đoán. Bà quay sang em ông Chơn. "Sau khi
anh đi tù hai năm thì má qua đời", người em nói chậm rãi, "Hai năm
sau ba mất".
Mặc dù ông Chơn đã linh cảm trước, nhưng tin
cha mẹ chết sao vẫn quá đau đớn. Ông cố gắng an ủi lòng mình rằng khi song thân
ông qua đời, họ biết rõ tình thương, tấm lòng hiếu thảo và sự hy sinh của ông
dành cho hai đấng sinh thành.
Ông Chơn cố gắng lắm mới giữ được sự bình an
trong lòng. Vì cha mẹ ông đã rất cao tuổi rồi, liệu quyết định bắt gia đình ông
ở lại Việt Nam có đáng không ? Đối với ông, quyết định ấy xứng đáng. Ông giải
thích, "Nếu lập lại tôi vẫn quyết định như thế cho dù cha mẹ tôi chẳng sống
được bao lâu chăng nữa - dù chỉ được vài tháng hay vài tuần. Tôi quyết định ở lại
để tránh cho cha mẹ tôi đau khổ họ phải chịu đựng vĩnh viễn nếu tôi đưa họ rời
xa quê hương. Đối với tôi điều quan trọng nhất trong đời là niềm hạnh phúc của
cha mẹ mình".
Khi chọn ở lại, ông Chơn muốn cho cha mẹ được
an lòng. Nhưng cuối cùng, cha ông không tìm thấy bình an. Người bạn của gia
đình tiết lộ rằng sự hy sinh và cực khổ của ông Chơn đã trở thành nguồn đau khổ
và ân hận vô cùng lớn đối với cha ông, mà từ đấy cha ông đã mang xuống tuyền
đài. Người bạn ấy tin chính đau khổ này đã giết chết người cha.
"Khi tôi biết cha tôi đã đau khổ trong những
ngày cuối đời vì thương con cực khổ, "ông Chơn kể lại, "tôi không thể
nào cầm được nước mắt. Tôi nhận thức chẳng có gì tôi đã làm hay có thể làm mà
có thể so sánh với tình thương bao la cha tôi dành cho tôi".
"Người ta hay nói "Có con rồi mới hiểu
tình thương bao la của cha mẹ", tôi tin điều này là đúng.
Gần năm năm sau ông Chơn mới có thể rời khỏi
nước. Vào ngày 9 tháng Mười Hai, 1991, một trong những chuyến bay đầu tiên
trong 17 năm giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Mỹ đã đưa đề đốc Chơn, vợ và con gái
út đến San Francisco.
Ngày nay ông Chơn sống ở San Jose cùng với vợ,
hai con trai và hai con gái. Bốn người con khác sống ở California ; hai người
con đã lập gia đình và sống ở Việt Nam. Ông Chơn nói bây giờ ông vẫn tin chắc
chắn như ông đã tin vào năm 1975 rằng con người gánh vác nhiều trách nhiệm ở đời,
nhưng trách nhiệm cao cả nhất là trách nhiệm đối với cha mẹ mình. Vì lý do này,
ông nói, con cái ông không bao giờ chất vấn quyết định của cha. "Trong bất
kỳ văn hóa nào", ông Chơn nhận xét, "con cái luôn luôn được dạy dỗ phải
thương yêu và kính trọng cha mẹ. Thương yêu và kính trọng cha mẹ là trách nhiệm
đạo lý chung của toàn nhân loại".
James Zumwalt
Nguyên tác : "A Son’s Sacrifice", The Washington
Post, 09/10/1994. Tựa đề của người dịch
Trần Quốc Việt dịch
**********************
Bài
học lớn nhất của lịch sử
Will Durant, Will Durant Foundation,
18/11/1945
Sử gia người Mỹ Will Durant đã viết bộ sử vĩ đại
nhất có lẽ của mọi thời đại nhan đề Câu Chuyện về nền văn minh (The Story of
Civilization). Từ đấy ông chắt lọc ra được bài học lớn nhất của lịch sử như
sau :
https://live.staticflickr.com/65535/52040778829_be7afd49c1.jpg
Rồi bất ngờ Charlie xoay tít cây gậy lên trời, sửa
mũ trên đầu lại cho chặc, và bước đi nghiêng qua nghiêng lại ra khỏi phim và
vào cuộc đời - con người là thế đấy.
"Nhưng tôi sẽ không
để các bạn nghĩ rằng lịch sử chỉ là bi kịch, và sự nghiên cứu lịch sử sẽ làm sụp
đổ bao hy vọng của con người. Không, thật ra bài học quý giá nhất của lịch sử
là con người bất khuất ; con người vượt qua được vô vàn các cuộc khủng hoảng,
như con người sẽ vượt qua những cuộc khủng hoảng ngày nay mà khiến ta lo lắng.
Các bạn có nhớ phim
"Đoàn Xiếc" của Charlie Chaplin ? Bạn chắc nhớ vào cuối phim Charlie
mất việc ở đoàn xiếc ; và buổi sáng hôm ấy sau lần diễn cuối cùng những chiếc
xe ngựa bít bùng lăn bánh đi bỏ anh ở lại một mình giữa những tàn tích, không bạn
bè, không tiền bạc, buồn thảm cô đơn thấy rõ ; đấy chính là hình ảnh con người
sau khi La Mã sụp đổ, hay sau Cuộc Chiến tranh Ba mươi Năm, hay Châu Âu sau Đệ
nhị Thế Chiến ! Rồi bất ngờ Charlie xoay tít cây gậy lên trời, sửa mũ trên đầu
lại cho chặc, và bước đi nghiêng qua nghiêng lại ra khỏi phim và vào cuộc đời -
con người là thế đấy.
Hình : https://live.staticflickr.com/65535/52041667683_809fc6f1b2_n.jpg
Dù con người tưởng chừng
ngã rất nặng, dù tai họa tưởng chừng ập xuống quá lớn, nhưng con người đứng dậy,
"đẫm máu nhưng không khuất phục", vẫn náo nức, tò mò, giàu tưởng tượng,
và quyết tâm bước đi tiếp. Rồi ở đâu đó, bằng cách nào đấy, con người sẽ gầy dựng
trở lại. Đấy là bài học lớn nhất của lịch sử".
Will Durant
Nguyên tác : "Invitation to History – The
Map of Human Character", Will Foundation, 18/11/1945
Trần Quốc Việt dịch
No comments:
Post a Comment